Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm - Tập 4, Số 1, Năm 2008
Tác giả: Nguyễn Quang Dũng, Nguyễn Lân
Tóm tắt:
Béo phì đang gia tăng trên học sinh tại các thành phố lớn, là yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, đái tháo đường, sỏi mật, ung thư, đe doạ tới sức khoẻ con người. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tỷ lệ béo phì và các yếu tố liên quan trên học sinh tiểu học. Nghiên cứu cắt ngang vào tháng 4/2007 trên 757 học sinh 9-11 tuổi tại 4 trường ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thu thập các thông tin nhân trắc, khẩu phần ăn, hoạt động thể lực (HĐTL) và tình trạng gia đình của học sinh. Tỷ lệ béo phì học sinh, tuỳ theo trường là 1,1%, 7,1%, 10,8% và 41,1%. Trẻ có bố và mẹ với BMI ³ 25 có nguy cơ béo phì gấp 5,96 lần so với trẻ có bố và mẹ với BMI < 25 (p< 0,05). Tiền ăn của trẻ béo phì và không béo phì: 7,2 và 4,4 ngàn đồng/bữa sáng; 592,7 và 410,3 ngàn đồng/tháng (p< 0,001). Năng lượng và lipid khẩu phần trong ngày của trẻ béo và không béo là 2530,8 và 2143,3 Kcal; 70,2 và 49,5 g. Số ngày HĐTL của trẻ béo và không béo không khác nhau, khoảng 3,8 ngày/tuần. Năng lượng, Lipid, Glucid khẩu phần cao, trình độ văn hoá và dinh dưỡng bố mẹ, chi phí cho ăn uống có liên quan tới béo phì. Béo phì gặp nhiều trên học sinh quận trung tâm thành phố. Phòng chống béo phì bao gồm giảm năng lượng ăn vào và tăng cường hoạt động thể lực.
Từ khóa: Béo phì, học sinh, hoạt động thể lực..