CỔNG THÔNG TIN DINH DƯỠNG QUỐC GIA

VIETNAM NUTRITIONAL PORTAL

Xu hướng tăng trưởng thế tục của người Việt Nam và định hướng của Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng trong giai đoạn 2011-2020
6 lượt xem
chia sẻ
Kết quả nghiên cứu và giám sát dinh dưỡng trong những thập kỷ qua cho thấy tình trạng dinh dưỡng của người dân nói chung đã được cải thiện đáng kể. Suy dinh dưỡng trẻ em đặc biệt là suy dinh dưỡng nặng và thể nhẹ cân đã giảm nhanh và giảm một cách bền vững. Đến cuối năm 2008, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể cân đã giảm xuống dưới 20%, vượt kế hoạch trước...
Tóm tắt tiếng Việt: Kết quả nghiên cứu và giám sát dinh dưỡng trong những thập kỷ qua cho thấy tình trạng dinh dưỡng của người dân nói chung đã được cải thiện đáng kể. Suy dinh dưỡng trẻ em đặc biệt là suy dinh dưỡng nặng và thể nhẹ cân đã giảm nhanh và giảm một cách bền vững. Đến cuối năm 2008, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể cân đã giảm xuống dưới 20%, vượt kế hoạch trước 2 năm so với mục tiêu của Chiến lược quốc gia dinh dưỡng 2001-2010. Tuy nhiên, suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn còn ở mức cao so với phân loại của Tổ chức Y tế thế giới và còn có sự khác biệt khá lớn giữa các vùng/miền, đặc biệt là suy dinh dưỡng thấp còi - ảnh hưởng đến chiều cao, tầm vóc của người Việt Nam. Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng của cộng đồng, đặc biệt là của bà mẹ và trẻ em vẫn còn ở mức cao. Thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai và trẻ em dưới 5 tuổi; thiếu Vitamin A tiền lâm sàng, thiếu Iốt vẫn còn ở mức có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, nhất là ở các vùng Tây Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Mặt khác, Việt Nam đang phải đối mặt với gánh nặng kép về dinh dưỡng. Thừa cân, béo phì và các bệnh mạn tính không lây có liên quan đến dinh dưỡng đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt ở các thành phố lớn. Trong những năm gần đây, trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng còn cao thì tỷ lệ thừa cân, béo phì và các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng đang gia tăng ở mọi lứa tuổi và các vùng miền dẫn đến thay đổi mô hình bệnh tật và tử vong. Các nghiên cứu về nhân trắc thể lực của người Việt Nam trong thế kỷ XX cho thấy trong khoảng gần 50 năm (1938 – 1985) không thấy các biểu hiện gia tăng về tầm vóc thể lực của người Việt Nam, chiều cao người trưởng thành gần như đứng yên (160 cm ở nam và 150 cm ở nữ). Tình trạng đó chắc chắn có liên quan đến nhiều thập kỷ chiến tranh. Gần đây đã có một số công trình phân tích khuynh hướng thế tục về tăng trưởng ở người Việt Nam (cả trẻ em và người lớn) từ sau chiến tranh nhất là từ thời kỳ đổi mới đến nay và nhận định có khuynh hướng gia tăng tăng trưởng. Đó là một biểu hiện đáng mừng về chất lượng nòi giống được cải thiện. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em đang giảm dần, năm 1985 là 59,7% , năm 2009 là 31,9%. Như vậy, giảm suy dinh dưỡng thấp còi đi song song với gia tăng tăng trưởng. Trong giai đoạn từ 1985 đến nay, đã quan sát thấy khuynh hướng tăng trưởng thế tục d­ương tính về chiều cao và cân nặng ở trẻ em bao gồm cả trẻ sơ sinh và trẻ 1 đến 15 tuổi, phản ánh tình trạng kinh tế xã hội và dinh dưỡng của Việt Nam được cải thiện rõ rệt sau 20 năm đổi mới. Khuynh h­ướng thế tục này xuất hiện ở mọi lứa tuổi của trẻ em đặc biệt ở tuổi vị thành niên (10 – 15 tuổi) có gia tốc tăng trưởng cả về chiều cao và cân nặng cao hơn các lứa tuổi nhỏ. Kết quả nghiên cứu cả chiều dọc và nghiên cứu cắt ngang cho thấy trẻ em Hà nội trong các thời điểm nghiên cứu đều có chiều cao và cân nặng cao hơn so với số liệu toàn quốc và tốc độ tăng trưởng thế tục cũng nhanh hơn (tăng khoảng 1,5 đến 2 cm/1 thập kỷ). Kết quả nghiên cứu chiều dọc tại Hà nội cũng cho thấy bên cạnh những can thiệp dinh dưỡng và sức khoẻ giai đoạn trẻ nhỏ có nguy cơ SDD cao thì giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì cũng là cơ hội tốt để giúp cho trẻ tăng tốc về chiều cao đặc biệt đối với trẻ bị chậm phát triển khi nhỏ. Một nghiên cứu ở Tân quang (Hưng yên) và Thanh lương (Hà nội) cho thấy chiều cao của người trưởng thành cũng được cải thiện: bình quân sau một thập kỷ (10 năm) chiều cao người trưởng thành  tăng khoảng từ 1-1,5 cm.  Chúng ta không thể khẳng định chiều cao tới hạn của người Việt Nam sẽ là bao nhiêu vì điều đó còn phụ thuộc cả vào tiềm năng di truyền nhưng khi chế độ dinh dưỡng và mức sống được cải thiện chắc chắn chiều cao của người Việt Nam sẽ tiếp tục tăng dọc theo thế kỷ XXI thông qua nhiều thế hệ. Do đó, kiên trì thực hiện đồng bộ các can thiệp dinh dưỡng theo chu kỳ vòng đời, đặc biệt dinh dưỡng sớm cho người mẹ trước và trong thời kỳ có thai và trẻ dưới 2 tuổi để giảm suy dinh dưỡng thấp còi là nhiệm vu chiến lược của ngành dinh dưỡng - sức khỏe trong thời gian dài trước mắt. Trẻ em dưới 5 tuổi có nguy cơ cao bị suy dinh dưỡng và béo phì. Những trẻ bị suy dinh dưỡng sớm (dưới 2 tuổi) sau đó tăng cân nhanh từ 3 – 5 tuổi thường dễ béo phì và tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường và cả bệnh tim mạch và hội chứng chuyển hóa khi còn trẻ. Do đó, dinh dưỡng hợp lý ỏ thời kỳ có thai và hai năm đầu tiên có thể giảm nhiều bệnh mạn tính liên quan đến dinh dưỡng về sau.Trong thời gian vừa qua các can thiệp mới chỉ được tập trung nhiều về giảm suy dinh dưỡng nhẹ cân, giai đoạn tới cần tập trung ưu tiên can thiệp về suy dinh dưỡng thấp còi để thúc đẩy tăng trưởng chiều cao. Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng trong giai đoạn tới (2011-2020) sẽ chú trọng đến giảm suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em góp phần nâng cao tầm vóc của người Việt nam, giảm tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng, kiểm soát thừa cân-béo phì, các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng, dinh dưỡng hợp lý cho mọi đối tượng và đảm bảo an toàn thực phẩm. Hoạt động dinh dưỡng sẽ được tiếp tục triển khai trên phạm vi toàn quốc, nhưng sẽ có các giải pháp can thiệp đặc thù cho các vùng, miền và các nhóm đối tượng cụ thể.Với mục tiêu tổng quát đến năm 2020, cải thiện bữa ăn của người dân ở tất cả các vùng đủ về số lượng, cân đối hơn về chất lượng; Đẩy mạnh giảm suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi, nhằm nâng cao tầm vóc và thể lực của người Việt Nam; đồng thời kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân - béo phì góp phần hạn chế các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng.
English summary: This overview briefs the nutritional situation of Vietnam with the reduction of underweight, the maintenance of stunting and micronutrient deficiencies, and the emergence of dietary related chronic diseases. An optimistic observation is the secular trend in growth since 1985 in some population groups. These trends have shaded the new NNS for the period of 2011 - 2020 with the focus on the acceleration of child stunting, thus increasing Vietnamese stature, reduction of micronutrient deficiencies and control of overweight/obesity and dietary related chronic diseases.
English summary: This overview briefs the nutritional situation of Vietnam with the reduction of underweight, the maintenance of stunting and micronutrient deficiencies, and the emergence of dietary related chronic diseases. An optimistic observation is the secular trend in growth since 1985 in some population groups. These trends have shaded the new NNS for the period of 2011 - 2020 with the focus on the acceleration of child stunting, thus increasing Vietnamese stature, reduction of micronutrient deficiencies and control of overweight/obesity and dietary related chronic diseases.