Xu hướng tiến triển suy dinh dưỡng thấp còi và các giải pháp can thiệp trong giai đoạn mới 2011-2020
Suy
dinh dưỡng thấp còi được coi là chỉ tiêu phản ánh trung thực nhất sự
phát triển nói chung ở trẻ em. Tổ chức Y tế thế giới khẳng định rằng
việc mắc các bệnh nhiễm khuẩn và nuôi dưỡng trẻ em kém hoặc phối hợp cả
hai nguyên nhân trên là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thấp còi ở
trẻ em và hậu quả là sự kém phát triển cả về thể lực và trí tuệ...
Tóm tắt tiếng Việt: Suy
dinh dưỡng thấp còi được coi là chỉ tiêu phản ánh trung thực nhất sự
phát triển nói chung ở trẻ em. Tổ chức Y tế thế giới khẳng định rằng
việc mắc các bệnh nhiễm khuẩn và nuôi dưỡng trẻ em kém hoặc phối hợp cả
hai nguyên nhân trên là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thấp còi ở
trẻ em và hậu quả là sự kém phát triển cả về thể lực và trí tuệ ở trẻ.
Suy
dinh dưỡng thấp còi là một hiện tượng phổ biến nhất của thiếu dinh
dưỡng trên thế giới. Thiếu dinh dưỡng protein năng lượng được xem là
nguyên nhân quan trọng hàng đầu của thấp còi (còn gọi là stunting).
Theo
số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, hiện nay có khoảng 29,5% trẻ em dưới
5 tuổi ở các nước đang phát triển bị SDD thấp còi, ước tính hiện nay có
khoảng 154 triệu trẻ em bị SDD thể còi ở các nước đang phát triển trên
thế giới. Hầu hết các trường hợp thấp còi xảy ra trước khi trẻ được 3
tuổi. Người ta đã thấy một cách rõ ràng là trẻ em bị thấp còi thì sau
này trở thành người lớn cũng có chiều cao thấp. Hơn nữa, những người bị
SDD thấp còi thường có nguy cơ tử vong cao, dễ mắc bệnh hơn so với người
bình thường, đồng thời khả năng lao động cũng kém hơn so với người bình
thường.
Theo
mô hình chu trình dinh dưỡng – vòng đời do Tiểu ban dinh dưỡng của Liên
Hợp Quốc đưa ra tại Hội nghị dinh dưỡng về những thách thức cho thể kỷ
XXI thì trẻ em thấp còi về sau trở thành người lớn cũng có chiều cao
thấp. Trẻ em gái bị SDD thấp còi lớn lên trở thành người phụ nữ thấp còi
và khi đẻ con thì nguy cơ SDD thấp còi cho con cao hơn.
Thiếu dinh dưỡng protein – năng lượng được xem là nguyên nhân quan trọng hàng đầu của thấp còi.
Cho
đến nay, cơ chế bệnh sinh của suy dinh dưỡng thấp còi chưa được sang tỏ
nhưng người ta đã thống nhất cả các yếu tố di truyền và các yếu tố
ngoại cảnh đều có vai trò quan trọng trong sự phát triển chiều cao. Yếu
tố di truyền qui định tiềm năng cho sự phát triển, nhưng nếu các yếu tố
ngoại cảnh trong đó quan trọng nhất là dinh dưỡng không thỏa mãn thì sẽ
không đạt đến mức phát triển chiều cao theo tiềm năng quy định.
Để
góp phần xác định nhóm ưu tiên cho can thiệp dinh dưỡng ở cộng động
việc theo dõi tiến triển và mức thay đổi cụ thể của tỷ lệ SDD thấp còi ở
trẻ em dưới 5 tuổi là một công việc cần thiết cho phép đánh giá tình
hình từ đó phục vụ cho các chiến lược can thiệp cộng đồng đạt được hiệu
quả tốt. Đồng thời, tìm hiểu và phân tích các yếu tố nguy cơ của suy
dinh dưỡng thấp còi (bao gồm các yếu tố về kinh tế, xã hội…) sẽ cung cấp
những thông tin cần thiết phục vụ chiến lược can thiệp phòng chống suy
dinh dưỡng và đặc biệt là góp phần nâng cao thể trạng về chiều cao cho
trẻ em nước ta.
English summary: Reduction
in childhood malnutrition in Vietnam between 1985; 2005 and 2009 was
examined using data of some national surveys. The prevalence of
malnutrition, including stunting, reduced significantly for underweight
from 59.7% in 1985 to 31.9% in 2009 with an average reduction of 1.2%
per year in the period from 1985 to 2009. There were clear difference in
the decrease in malnutrition prevalence between urban, rural and
mountains areas, the reduction being highest in the urban regions and
lowest in the mountains areas. Regression analysis showed that the
nutrition status of the child is positively related to better household
living condition and educational level of the fathers, but not the
mothers. Stunting is higher in children whose parents are famers and
higher in households with more children. Stunting prevalence is lower in
households with safe water access and hygienic toilets. For the years
to come, the dramatic reduction is childhood malnutrion as seen in the
period 1994 to 2009 might be diffirent to match. More comprehensive
action are needed to lower childhood malnutrion in Vietnam further.
English summary: Reduction
in childhood malnutrition in Vietnam between 1985; 2005 and 2009 was
examined using data of some national surveys. The prevalence of
malnutrition, including stunting, reduced significantly for underweight
from 59.7% in 1985 to 31.9% in 2009 with an average reduction of 1.2%
per year in the period from 1985 to 2009. There were clear difference in
the decrease in malnutrition prevalence between urban, rural and
mountains areas, the reduction being highest in the urban regions and
lowest in the mountains areas. Regression analysis showed that the
nutrition status of the child is positively related to better household
living condition and educational level of the fathers, but not the
mothers. Stunting is higher in children whose parents are famers and
higher in households with more children. Stunting prevalence is lower in
households with safe water access and hygienic toilets. For the years
to come, the dramatic reduction is childhood malnutrion as seen in the
period 1994 to 2009 might be diffirent to match. More comprehensive
action are needed to lower childhood malnutrion in Vietnam further.