CỔNG THÔNG TIN DINH DƯỠNG QUỐC GIA

VIETNAM NUTRITIONAL PORTAL

Khẩu phần ăn bổ sung của trẻ 13 đến 18 tháng ở một phường nội thành và một xã ngoại thành Hà Nội
5 lượt xem
chia sẻ
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào tháng 11 năm 2011 trê 80 đối tượng trẻ độ tuổi 13-18 tháng chưa cai sữa mẹ ở một phường nội thành và một xã ngoại thành Hà Nội. Mục tiêu: Mô tả khẩu phần ăn bổ sung (KPABS) của trẻ 13-18 tháng thông qua cân đong khẩu phần trong 24 giờ. Kết quả: gạo, sữa, thịt, hoa quả là các nhóm thực phẩm được tiêu thụ...
Tóm tắt tiếng Việt: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào tháng 11 năm 2011 trê 80 đối tượng trẻ độ tuổi 13-18 tháng chưa cai sữa mẹ ở một phường nội thành và một xã ngoại thành Hà Nội. Mục tiêu: Mô tả khẩu phần ăn bổ sung (KPABS) của trẻ 13-18 tháng thông qua cân đong khẩu phần trong 24 giờ. Kết quả: gạo, sữa, thịt, hoa quả là các nhóm thực phẩm được tiêu thụ nhiều ở cả 2 địa phương trong đó hoa quả và sữa bột – phomat được tiêu thụ ở phường Khương Đình được tiêu thụ nhiều hơn so với xã Đại Mỗ (p<0,05). Trẻ nữ xã Đại Mỗ có lượng ăn vào các chất sinh năng lượng chính như P, L, G và các vi chất như sắt, kẽm đều thấp hơn một cách có ý nghĩa so với trẻ nam cùng địa phương và trẻ nữ ở phường Khương Đình với p<0,05. Tỷ lệ trẻ có KAPBS đáp ứng nhu cầu khuyến nghị về năng lượng là 60%, protein là 68,8%, lipid là 60%, canxi là 70,0%, photpho là 85%, sắt là 53,8% và kẽm là 91,3%. Các vitamin có tỷ lệ trẻ đáp ứng lần lượt là: vitamin A là 93,8%, vitamin C là 97,5%, vitamin B1 là 75%, vitamin B2 là 91,3% và vitamin PP là 56,3%. Cơ cấu các chất sinh năng lượng P:L:G của KPABS của trẻ ở 2 địa phương là tương tự nhau, tỷ lệ này ở phường Khương Đình là 16:29,4:54,6 và ở xã Đại Mỗ là 15,3: 27,4:57,3.
English summary: A cross-sectional study was conducted in November, 2011 on 80 weaning children aged 13-18 months in an urban ward and a suburban commune of Hanoi. Its objective was to describe complementary food consumption of children 13-18 months old by measuring food intake during 24 hours. The results showed that rice, milk, fruits were consumed much in both sites, of which milk and fruit group were consumed more in Khuong Dinh ward than in Dai Mo commune (p<0.05). Dai Mo girl’s intake of P, L, G and other micronutrients such as iron, zinc were significantly lower than boy’s in the same commune and Khuong Dinh girl’s (p<0.05). The prevalence of children with complementary diet meeting RDIs of energy, protein, lipid, calcium, phosphorus, iron, zinc, vitamin A, vitamin C, vitamin B1, vitamin B2, vitamin PP was 60%, 68.8%, 60%, 70.0%, 85%, 53.8%, 91.3%, 93.8%, 97.5%, 75%, 91.3% and 56.3%, respectively. The ratio among P: L: G of children’s intake (excluding breast milk) in Khuong Dinh and Dai Mo was similar, which was 16:29.4: 54.6 in Khuong Dinh and 15.3:27.4:57.3 in Dai Mo.
English summary: A cross-sectional study was conducted in November, 2011 on 80 weaning children aged 13-18 months in an urban ward and a suburban commune of Hanoi. Its objective was to describe complementary food consumption of children 13-18 months old by measuring food intake during 24 hours. The results showed that rice, milk, fruits were consumed much in both sites, of which milk and fruit group were consumed more in Khuong Dinh ward than in Dai Mo commune (p<0.05). Dai Mo girl’s intake of P, L, G and other micronutrients such as iron, zinc were significantly lower than boy’s in the same commune and Khuong Dinh girl’s (p<0.05). The prevalence of children with complementary diet meeting RDIs of energy, protein, lipid, calcium, phosphorus, iron, zinc, vitamin A, vitamin C, vitamin B1, vitamin B2, vitamin PP was 60%, 68.8%, 60%, 70.0%, 85%, 53.8%, 91.3%, 93.8%, 97.5%, 75%, 91.3% and 56.3%, respectively. The ratio among P: L: G of children’s intake (excluding breast milk) in Khuong Dinh and Dai Mo was similar, which was 16:29.4: 54.6 in Khuong Dinh and 15.3:27.4:57.3 in Dai Mo.