Mấy vấn đề dinh dưỡng hiện nay và chiến lược dinh dưỡng dự phòng
Trước
công nguyên Hyppocrates đã quan niệm: Mối quan hệ của các yếu tố di
truyền với môi trường tự nhiên và dinh dưỡng là cơ sở của tình trạng sức
khỏe và bệnh tật. Phát triển thể lực trẻ em bị chi phối bởi nhiều yếu
tố: yếu tố di truyền và yếu tố môi trường bên ngoài trong đó có dinh
dưỡng, bệnh tật. Trong những năm cuối của thế kỷ XX người ta...
Tóm tắt tiếng Việt: Trước
công nguyên Hyppocrates đã quan niệm: Mối quan hệ của các yếu tố di
truyền với môi trường tự nhiên và dinh dưỡng là cơ sở của tình trạng sức
khỏe và bệnh tật. Phát triển thể lực trẻ em bị chi phối bởi nhiều yếu
tố: yếu tố di truyền và yếu tố môi trường bên ngoài trong đó có dinh
dưỡng, bệnh tật. Trong những năm cuối của thế kỷ XX người ta đã nhận
rằng các yếu tố di truyền chỉ ra tính nhạy cảm đối với bệnh tật và các
yếu tố môi trường quyết định các cá thể nhạy cảm đối với bệnh tật và các
yếu tố môi trường quyết định các cá thể nhạy cảm về di truyền nào sẽ
mắc bệnh, mà dinh dưỡng là yếu tố môi trường quan trọng nhất. Kết quả
nghiên cứu của các nhà dinh dưỡng cũng cho thấy nhiều thành phần khác
ngoài các chất dinh dưỡng truyền thống trong thức ăn có các vai trò đặc
hiệu quan trọng đối với sức khỏe và dự phòng các bệnh mạn tính đã mở ra
chân trời mới cho dinh dưỡng học. Khoa học dinh dưỡng không chỉ nhằm
loại trừ các bệnh do thiếu dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng mà còn
góp phần hạn chế các bệnh mạn tính có liên quan đến dinh dưỡng và đang
trở nên một ngành khoa học nền để bảo vệ và nâng cao sức khỏe, cải thiện
chất lượng cuộc sống. Các thay đổi nhanh chóng về chế độ ăn của loài
người đặc biệt trong vòng 2 thế kỷ qua đã là các yếu tố thúc đẩy các
bệnh mạn tính như xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, béo phì, đái tháo
đường và nhiều loại ung thư. Thêm vào đó lối sống tĩnh tại và sự phơi
nhiễm với các yếu tố độc hại đã tác động qua lại với các quá trình
chuyển hóa được kiểm soát về di truyền dẫn tới các bệnh mạn tính. Theo
một số tác giả thì trong thời kỳ chuyển tiếp, thừa cân và béo phì là
giai đoạn báo động đầu tiên, tiếp đó là đái tháo đường và các bệnh tim
mạch sẽ nổi lên sau một thế hệ. Luận điểm trên đây cần được quan tâm
trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược dinh dưỡng. Trong
thập kỷ qua, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và an ninh lương
thực quốc gia được bảo đảm, Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng 2001-2010
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; bên cạnh đó, được sự quan tâm chỉ
đạo, đầu tư của Đảng và Nhà nước; sự nỗ lực của ngành Y tế và sự tham
gia tích cực của các ban ngành và toàn xã hội, Việt Nam đã đạt được kết
quả đáng kể trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của
nhân dân. Hầu hết các mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng
giai đoạn 2001-2010 đã đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Kiến thức và thực
hành dinh dưỡng của người dân đã được nâng cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể
nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm tương đối nhanh và liên tục so với
số liệu năm 1985 và 2000. Tại kỳ họp thường niên lần thứ 35 của Ủy ban
thường trực về Dinh dưỡng Liên hợp quốc tổ chức tại Hà Nội (3/2008). Quỹ
Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đánh
giá Việt Nam là một trong số ít các quốc gia đạt mức giảm suy dinh dưỡng
trẻ em gần với mục tiêu Thiên niên kỷ. Mặc
dù đạt được các thành tựu đáng ghi nhận trong thời gian qua nhưng Việt
Nam vẫn phải đương đầu với những thách thức lớn về dinh dưỡng. Trong khi
tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dươi 5 tuổi vẫn còn ở mức cao
thì tình trạng thừa cân – Béo phì và một số bệnh mạn tính không lây liên
quan đến dinh dưỡng đang có xu hướng gia tăng, đó là gánh nặng kép về
dinh dưỡng. Các thách thức trong bối cảnh mới tiếp tục đòi hỏi những nỗ
lực cao trong hành động, hướng tới dinh dưỡng hợp lý và tăng cường sức
khỏe cho cộng đồng góp phần đạt được mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
mà Nhà nước ta đã cam kết thực hiện với cộng đồng quốc tế.
English summary: The
authors briefed the current nutrition situation of Vietnam, including
maternal and child malnutrition, micro-nutrient deficiencies,
overweight/obesity, food intake and maternal nutrition knowledge and
capacity of nutrition network. They once again emphasized the importance
of preventive approach in nutrition for the country.
English summary: The
authors briefed the current nutrition situation of Vietnam, including
maternal and child malnutrition, micro-nutrient deficiencies,
overweight/obesity, food intake and maternal nutrition knowledge and
capacity of nutrition network. They once again emphasized the importance
of preventive approach in nutrition for the country.