CỔNG THÔNG TIN DINH DƯỠNG QUỐC GIA

VIETNAM NUTRITIONAL PORTAL

Hiệu quả ăn tiết chế trên thai phụ Đái tháo đường thai kỳ
5 lượt xem
chia sẻ
Mở đầu: Đái tháo đường thai kỳ là một rối loạn chuyển hóa thường gặp, chiếm tỷ lệ 2 - 20% trong thai kỳ, xu hướng ngày càng nhiều tại Việt Nam. Tiết chế ăn uống phù hợp có thể giúp kiểm soát đến hơn 80% trường hợp. Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiến cứu trên 154 sản phụ đến khám thai tại bệnh viện quận Thủ Đức trong khoảng thời gian 1 năm. Tất cả...
Tóm tắt tiếng Việt: Mở đầu: Đái tháo đường thai kỳ là một rối loạn chuyển hóa thường gặp, chiếm tỷ lệ 2 - 20% trong thai kỳ, xu hướng ngày càng nhiều tại Việt Nam. Tiết chế ăn uống phù hợp có thể giúp kiểm soát đến hơn 80% trường hợp. Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiến cứu trên 154 sản phụ đến khám thai tại bệnh viện quận Thủ Đức trong khoảng thời gian 1 năm. Tất cả sản phụ có làm xét nghiệm dung nạp 75 gam glucose – 2 giờ theo tiêu chí chẩn đoán của Tổ chức Y tế thế giới (2013). Kết quả: Tỷ lệ thai phụ bị đái tháo đường thai kỳ có kiểm soát đường huyết sau 3 tuần điều trị ngoại trú bằng tự tiết chế ăn uống theo hướng dẫn là 90,3% [KTC 95%: 86,2 – 94,0]. Yếu tố có liên quan đến kiểm soát đường huyết: Tăng đường huyết 2 giờ trong xét nghiệm dung nạp 75 g glucose trong chẩn đoán [OR hiệu chỉnh = 5,24 (1,11 – 24,77%), p=0,04]. Chưa tìm thấy mối liên quan giữa kết quả kiểm soát đường huyết sau 3 tuần điều trị với một số kết cục thai kỳ như thai to ≥ 4000 g, sinh non < 37 tuần và sinh mổ. Kết luận: Chế độ dinh dưỡng tiết chế phù hợp có hiệu quả trong kiểm soát đường huyết khoảng 90,3% thai phụ bị đái tháo đường thai kỳ theo dõi ngoại trú. Open start: Xạ thử đường thai kỳ là một rối loạn chuyển đổi thường gặp, chiếm tỷ lệ 2 - 20% trong thai kỳ, xu hướng ngày càng nhiều tại Việt Nam. Tiết chế ăn uống có thể giúp kiểm soát đến hơn 80% trường hợp. Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiến trình trên 154 sản xuất phụ đến khám nghiệm tại bệnh viện quận Thủ Đức trong khoảng thời gian 1 năm. Tất cả sản phẩm phụ đều làm thử nghiệm dung nạp 75 gam glucose - 2 giờ theo tiêu chuẩn đoán của Tổ chức Y tế thế giới (2013). Kết quả: Tỷ lệ thai phụ bị bỏ sót đường thai kỳ có kiểm tra huyết mạch sau 3 tuần điều trị ngoại trú bằng chế độ ăn uống theo hướng dẫn là 90,3% [KTC 95%: 86,2 - 94, 0]. Yếu tố liên quan đến kiểm tra đường huyết: Tăng đường huyết 2 giờ trong quá trình thử nghiệm dung nạp 75 g glucose trong phép thử [OR hiệu chỉnh = 5,24 (1,11 - 24,77%), p = 0, 04]. Mối quan hệ không được tìm thấy giữa kết quả kiểm tra huyết mạch sau 3 tuần với một số cục cục như thai to ≥ 4000 g, sinh non <37 tuần và sinh mổ. Kết luận: Chế độ dinh dưỡng tiết kiệm phù hợp có hiệu quả trong kiểm tra đường huyết khoảng 90,3% thai phụ bị bỏ sót đường thai kỳ theo dõi ngoại trú.
English summary: Gestational diabetes mellitus (GDM) is a common metabolic disorder, accounting for 2-20% during pregnancy, and is on the rise in Vietnam. Nutrition dietary therapy is able to manage more than 80% of cases. Methods: a prospective longitudinal study was conducted on 154 pregnant women attending the antenatal clinic in Thu Duc district hospital in a year. All pregnant women took the intolerance test for 75 grams of glucose - 2 hours according to diagnostic criteria of the World Health Organization (2013).Results: The rate of GDM women, who can control glucose blood level after 3 weeks in outpatient department by self-catering diet along with health care instruction was 90.3% [95% CI: 86.2 to 94.0]. Factors related to glycemic control included: 2- hour hyperglycemia in 75g glucose tolerance test [OR = 5.24 correction (from 1.11 to 24.77%), p = 0.04]. No association was found between glycemic control results after 3 weeks of treatment with some pregnancy outcomes such as fetal macrosomia ≥ 4000 g, preterm birth <37 weeks and caesarean. Conclusion: Proper dietary therapy was effective in controlling blood glucose levels in GDM outpatients.
English summary: Gestational diabetes mellitus (GDM) is a common metabolic disorder, accounting for 2-20% during pregnancy, and is on the rise in Vietnam. Nutrition dietary therapy is able to manage more than 80% of cases. Methods: a prospective longitudinal study was conducted on 154 pregnant women attending the antenatal clinic in Thu Duc district hospital in a year. All pregnant women took the intolerance test for 75 grams of glucose - 2 hours according to diagnostic criteria of the World Health Organization (2013).Results: The rate of GDM women, who can control glucose blood level after 3 weeks in outpatient department by self-catering diet along with health care instruction was 90.3% [95% CI: 86.2 to 94.0]. Factors related to glycemic control included: 2- hour hyperglycemia in 75g glucose tolerance test [OR = 5.24 correction (from 1.11 to 24.77%), p = 0.04]. No association was found between glycemic control results after 3 weeks of treatment with some pregnancy outcomes such as fetal macrosomia ≥ 4000 g, preterm birth <37 weeks and caesarean. Conclusion: Proper dietary therapy was effective in controlling blood glucose levels in GDM outpatients.