Một vài nét về đề tài cấp nhà nước Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp can thiệp giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em Việt Nam
Suy
dinh dưỡng (SDD) thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn đang là vấn đề có ý
nghĩa về sức khỏe cộng đồng đối với các nước đang phát triển. Theo ước
tính của Tổ chức Y tế thế giới, có khoảng 150 triệu trẻ em bị SDD, trong
đó có tới 70% là trẻ em châu Á. Suy dinh dưỡng thể thấp còi (stunting)
là biểu hiện của thiếu dinh dưỡng kéo dài - SDD mạn tính ở...
Tóm tắt tiếng Việt: Suy
dinh dưỡng (SDD) thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn đang là vấn đề có ý
nghĩa về sức khỏe cộng đồng đối với các nước đang phát triển. Theo ước
tính của Tổ chức Y tế thế giới, có khoảng 150 triệu trẻ em bị SDD, trong
đó có tới 70% là trẻ em châu Á. Suy dinh dưỡng thể thấp còi (stunting)
là biểu hiện của thiếu dinh dưỡng kéo dài - SDD mạn tính ở trẻ em do
thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết phối hợp với điều kiện vệ sinh nghèo
nàn, mắc các bệnh nhiễm khuẩn nhiều lần và thiếu sự chăm sóc cần thiết.
SDD thấp còi để lại hậu quả lâu dài, ảnh hưởng đến sự phát triển thể
chất và tinh thần cho đứa trẻ, các bệnh mạn tính khi trưởng thành và ảnh
hưởng đến thế hệ kế tiếp. Tại Việt Nam, dù đã có nhiều thành tựu trong
công tác phòng chống SDD, nhưng tỷ lệ SDD ở trẻ em nước ta vẫn còn ở mức
cao, đặc biệt là SDD thể thấp còi là 29,3% năm 2010 và 26,7% (2012).
Trong đó, giai đoạn trẻ có nguy cơ SDD cao nhất là từ 12 tới 24 tháng
tuổi và tỷ lệ SDD giữ ở mức cao cho đến 60 tháng tuổi. Bên cạnh đó, tỷ
lệ thiếu vitamin A, thiếu máu thiếu sắt, thiếu kẽm vẫn còn là vấn đề có ý
nghĩa sức khỏe cộng đồng. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi trên toàn
quốc là 34,1% năm 2008 và 29,2% năm 2011. Cho đến nay, chưa có các số
liệu về tình trạng SDD thấp còi, tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng và
các yếu tố liên quan tại một số vùng khó khăn, việc đánh giá thực trạng
cụ thể hiện nay, giúp cho việc xây dựng các giải pháp chiến lược phù
hợp, hiệu quả để giải quyết tình trạng SDD thấp còi ở trẻ em Việt Nam,
đặc biệt trẻ em tại các vùng khó khăn. Đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp can thiệp giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em Việt Nam” đã được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt và triển khai từ năm 2011 đến 2014. Mục tiêu của đề tài: 1) Đánh giá được thực trạng và các yếu tố nguy cơ của tình trạng SDD thể thấp còi ở trẻ em Việt Nam; 2)
Xây dựng và đánh giá được hiệu quả của các giải pháp can thiệp nhằm
giảm tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ em Việt Nam, đã được Viện Dinh dưỡng
thực hiện liên tục trong suốt 3 năm triển khai trên nhiều tỉnh miền núi,
trên nhiều đối tượng có nguy cơ và đối tượng SDD thấp còi. Đề tài bao gồm các nhánh: Đánh giá thực trạng và các yếu tố nguy cơ SDD thấp còi ở trẻ em dưới 2 tuổi tại vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên.Xác định giá trị dinh dưỡng khẩu phần của trẻ 2-5 tuổi.Xác định nhu cầu canxi bằng phương pháp Balance ở trẻ 3-5 tuổi Hiệu
quả của truyền thông giáo dục tới thay đổi hành vi nuôi dưỡng trẻ nhỏ
tại vùng có tỷ lệ SDD thấp còi cao góp phần giảm SDD thấp còi ở trẻ nhỏHiệu quả can thiệp bằng chế độ ăn từ nguồn thực phẩm sẵn có tại địa phương đối với tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi.Hiệu
quả của bổ sung viên đa vi chất dinh dưỡng đối với cải thiện tình trạng
dinh dưỡng của bà mẹ (phụ nữ mang thai) và phát triển của trẻ nhỏ đến 6
tháng tuổi.Nghiên
cứu sản xuất và đánh giá khả năng chấp nhận sản phẩm dinh dưỡng giàu
acid amin và vi chất dinh dưỡng (Viaminokid) cho trẻ em SDD thấp còi.Hiệu
quả sản phẩm dinh dưỡng giàu acid amin và vi chất dinh dưỡng
(Viaminokid) tới cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng
cho trẻ em 12-47 tháng tuổi SDD thấp còi. Một số kết quả chính: -
Kết quả về điều tra cắt ngang với mục đích đánh giá thực trạng và yếu
tố nguy cơ của trẻ SDD thấp còi tiến hành trên gần 2000 trẻ dưới 2 tuổi
tại 4 tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Gia Lai, Kon Tum đã cho thấy tỷ lệ trẻ
dưới 2 tuổi SDD thấp còi còn rất cao, 41,3%, tăng dần theo tuổi (từ
22% ở nhóm 0-5 tháng đến 62% ở nhóm 18-23 tháng). Tỷ lệ trẻ dưới 2 tuổi
SDD nhẹ cân là 24,8% tăng dần theo tuổi (từ 15% ở nhóm 0-5 tháng đến 32%
ở nhóm 18-23 tháng). Thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ dưới 2 tuổi còn
cao, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 2 tuổi là 58,6%, tỷ lệ dự trữ sắt cạn
kiệt là 37%, tỷ lệ thiếu kẽm là 49,5%. Kết quả điều tra trên 262 bà mẹ
có trẻ 7-23 tháng tuổi tại tỉnh Phú Thọ cho tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm
trong một giờ đầu là 49,6%, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 27,8%,
bú mẹ đến 1 tuổi là 60,6%, bú mẹ đến 2 tuổi là 11,1%. Tỷ lệ bà mẹ cho
con ăn trước 6 tháng tuổi là 76,7%, việc thực hành ăn bổ sung theo
phương pháp đa dạng thực phẩm bổ sung dầu mỡ chỉ đạt 55%. Bên cạnh đó,
kết quả đánh giá khẩu phần bằng phương pháp hóa học cho thấy khẩu phần
của trẻ 2-5 tuổi thấp còi không đáp ứng nhu cầu khuyến nghị. Từ
kết quả đánh giá thực trạng, phân tích thống kê cho thấy một số yếu tố
liên quan đến tình trạng thấp còi đã được xác định trong nghiên cứu này
là: Khẩu phần của trẻ không hợp lý, trẻ không ăn đủ số bữa tối thiểu;
Trẻ không được tiếp tục cho bú đến 1 tuổi; Trẻ sinh nhẹ cân; khoảng cách
sinh ngắn (năm một); hộ gia đình nghèo; Trẻ bị thiếu máu; Hàm
lượng kẽm huyết thanh thấp; Trẻ bị tiêu chảy không được chăm sóc hợp lý;
Chiều cao của bố mẹ thấp (Chiều cao của mẹ dưới 145cm; Chiều cao của bố
dưới 155cm). -
Các kết quả xây dựng giải pháp can thiệp và đánh giá hiệu quả các giải
pháp can thiệp bằng giải pháp truyền thông giáo dục dinh dưỡng đã cho
thấy cải thiện thực hành của bà mẹ về bú mẹ hòan toàn tăng từ 26,8% lên
65,4%, về ăn bổ sung theo phương pháp cho trẻ ăn đa dạng và có bổ sung
dầu mỡ tăng từ 42,4% lên 59,2%, tiêu thụ thực phẩm giàu sắt tăng từ
88,4% lên 92,1%, giảm tỷ lệ SDD thấp còi từ 19,2% xuống 9,4%, hiệu quả
phòng chống SDD thấp còi đạt 36,7%. -
Bằng hướng dẫn chế độ ăn thông qua bộ thực đơn được thiết kế dành cho
trẻ SDD thấp còi và khuyến khích bà mẹ sử dụng nguồn thực phẩm sẵn có
tại địa phương đã cải thiện khẩu phần trẻ về năng lượng, lượng protein,
canxi, sắt, kẽm, vitamin A, vitamin C. Sau 6 tháng can thiệp, nhóm can
thiệp có mức tiêu thụ các nhóm thực phẩm cao hơn có ý nghĩa thống kê so
với nhóm chứng là nhóm dầu, mỡ, nhóm rau quả và đặc biệt là nhóm rau,
củ, quả có màu vàng, đỏ và xanh sẫm; sự thay đổi rõ rệt về tiêu thụ
trứng, sữa. Sau 6 tháng can thiệp, chiều cao ở nhóm can thiệp cao hơn
0,48cm so với nhóm chứng (5,1cm so với 4,6cm, p< 0,035). Tỷ lệ SDD
nhẹ cân và thấp còi có xu hướng giảm nhiều hơn ở nhóm can thiệp, có xu
hướng cải thiện nồng độ hemoglobin ở nhóm can thiệp. -
Các kết quả đánh giá hiệu quả bổ sung viên đa vi chất dinh dưỡng trên
phụ nữ có thai đã cho thấy bổ sung viên đa vi chất liên tục từ sau tuần
thai thứ 8 cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ, cải thiện chiều
dài sơ sinh của trẻ (51,7±3,5cm), góp phần giảm tỷ lệ SDD thấp còi cho
trẻ. -
Một nhánh thuộc đề tài cấp nhà nước cũng đã nghiên cứu và sản xuất
thành công sản phẩm dinh dưỡng giàu acid amin và vi chất dinh dưỡng
(Viaminokid) với công thức và qui trình hoàn thiện, thành phần dinh
dưỡng của sản phẩm đáp ứng được trên 40% nhu cầu acid amin, kẽm, selen,
sắt, iod, các vitamin nhóm B của trẻ 1-3 tuổi khi trẻ sử dụng từ 2,5g
đến 5g/ngày, được đánh giá cảm quan và chất lượng ổn định và trên 80%
cộng đồng chấp nhận về màu, hình thức và tính tiện dùng. Kết quả thử
nghiệm lâm sàng trên trẻ SDD thấp còi 12-47 tháng tuổi đã cho thấy bổ
sung sản phẩm Viaminokid đã góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng
(mức tăng chiều cao nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng là 0,91cm sau 9
tháng), giảm tỷ lệ SDD thấp còi (hiệu quả đạt 20%), giảm tỷ lệ thiếu máu
(43,1% xuống 10%), thiếu kẽm (55,5% xuống 8,8%), có tác dụng rõ rệt làm
giảm số ngày mắc nhiễm khuẩn hô hấp (2,56 ngày), số lần mắc bệnh (0,97
lần) so với nhóm chứng, có xu hướng cải thiện chỉ số IGF-I và chỉ số
miễn dịch IgA. Các
kết quả nghiên cứu của đề tài cấp nhà nước đã cho thấy tỷ lệ SDD thấp
còi, thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em tại các tỉnh miền núi còn là vấn
đề sức khỏe cộng đồng, cần được tiếp tục theo dõi và giám sát cũng như
có biện pháp tích cực nhằm giảm cải thiện tỷ lệ SDD thấp còi tại các khu
vực này. Các giải pháp can thiệp dinh dưỡng cần thực hiện đồng bộ, kết
hợp nhiều giải pháp khác nhau và phù hợp vùng miền để đạt được hiệu quả
cao nhất. Cần chú trọng công tác giáo dục truyền thông tăng cường kiến
thức về phòng chống SDD thấp còi và thực hành nuôi dưỡng trẻ của các bà
mẹ. Tại vùng có tỷ lệ SDD thấp còi cao, cần áp dụng các bộ thực đơn
phòng chống SDD dựa trên nguồn thực phẩm sẵn có tại các địa phương dưới
sự hướng dẫn của cán bộ dinh dưỡng. Bà mẹ có thai tại vùng có tỷ lệ
thiếu máu cao cần được tiếp tục bổ sung viên sắt acid-folic. Ở những
vùng thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng và có tỷ lệ SDD thấp còi cao nên bổ
sung viên đa vi chất. Đối với trẻ được chẩn đoán SDD thấp còi cần được
bổ sung thêm các sản phẩm giàu acid amin và vi chất dinh dưỡng nhằm phục
hồi và hỗ trợ cho sự phát triển và tăng trưởng cho trẻ kể cả về thể
chất và trí tuệ. Một
công trình nghiên cứu khoa học thành công cần phải kể đến sự ủng hộ,
giúp đỡ và tạo điều kiện của Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Y tế, Lãnh đạo
Viện Dinh dưỡng; Sự cộng tác hiệu quả của các chủ nhiệm nhánh và các thư
ký phụ trách triển khai hoạt động là những cán bộ chuyên môn giỏi,
nhiệt huyết góp phần chính cho sự thành công của đề tài. Tuy nhiên, sự
hạn chế về thời gian và kinh phí, các kết quả của đề tài cũng chưa đáp
ứng được hết và chưa đạt được toàn diện về ý tưởng và mục tiêu nghiên
cứu chung. Các kết quả của đề tài cung cấp một phần số liệu và các bằng
chứng khoa học về giải pháp dinh dưỡng phòng chống SDD thấp còi, góp
phần cho công cuộc bảo vệ sức khỏa của nhân dân và là cơ sở khoa học cho
chương trình quốc gia về nâng cao tầm vóc người Việt Nam trong những
thập kỷ tới.
English summary:
English summary: