Khảo sát liệu những yếu tố viêm giúp chẩn đoán tình trạng đề kháng insulin và bất dung nạp đường độc lập với béo phì ở người Việt Nam.
Tạp chí DD&TP/Journal of Food and Nutrition Sciences - Tập 8 - Số 4 - Tháng 11/ Vol.8 - No.4 - November - Năm 2012/ Year 2012
Tóm tắt tiếng Việt: Mục tiêu: Khảo sát liệu những yếu tố viêm giúp chẩn đoán tình trạng đề kháng insulin và bất dung nạp đường độc lập với béo phì ở người Việt Nam. Phương pháp: 422 đối tượng được chọn bắt cặp theo nhóm tuổi và giới từ 4 nhóm có đường huyết bình thường, rối loạn đường huyết lúc đói, rối loạn dung nạp đường và ĐTĐ từ kết quả nghiệm pháp dung nạp đường qua điều tra dịch tễ học cắt ngang “Khảo sát tình trạng đái tháo đường và hội chứng chuyển hóa cùng một số yếu tố liên quan trên người trưởng thành ở TP.HCM năm 2008”. Kết quả: Nồng độ hsCRP, NOx chỉ xảy ra ở nhóm bệnh ĐTĐ (khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01) trong khi HMW-Adiponectin có dấu hiệu suy giảm sớm ngay khi bắt đầu có rối loạn đường huyết lúc đói (p < 0,05) và mức độ giảm tăng dần ở các nhóm rối loạn dung nạp đường và tiến triển thành đái tháo đường (p < 0,01). Không có tương quan giữa hsCRP hay NOx huyết tương với chỉ số đề kháng insulin (HOMA-IR) trong khi HMW-adiponectin tương quan mạnh với HOMA-IR (p < 0,001). HMW-adiponectin thấp gia tăng nguy cơ đề kháng insulin (OR 1,73, [95% CI, 1,36 - 2,20]), bất dung nạp glucose (OR 1,45 [95% CI,1,14 - 1,84]), hội chứng chuyển hóa (OR 1,33 [95% CI, 1,01 - 1,75]) và ĐTĐ (OR 1,38 [95% CI, 1,03 – 1,85]) so với nhóm có HMW- Adiponectin cao. Phân tích đa biến cho thấy nồng độ HMW- adiponectin tương quan với đường huyết sau 2 giờ và chỉ số HOMA-IR độc lập với các chỉ số liên quan sự tích mỡ (BMI, vòng eo và phần trăm mỡ cơ thể). Kết luận: Nồng độ hs CRP và NOx huyết tương không giúp tiên đoán bất dung nạp đường huyết hay đề kháng insulin trước khi khởi phát ĐTĐ. Ngược lại, HMW- adiponectin có ý nghĩa tiên đoán sớm các đối tượng có nguy cơ cao của ĐTĐ týp 2, đặc biệt trên một dân số có mức BMI tăng trung bình như người Việt Nam.
To investigate the usefulness of inflammatory markers in predicting insulin resistance and glucose intolerance before the development of T2D.
Tạp chí DD&TP/Journal of Food and Nutrition Sciences - Tập 8 - Số 4 - Tháng 11/ Vol.8 - No.4 - November - Năm 2012/ Year 2012
English summary: Objectives: To investigate the usefulness of inflammatory markers in predicting insulin resistance and glucose intolerance before the development of T2D. Methods: The current study was derived from a population-based study in HCMC, Vietnam, which was designed to investigate the prevalence of MS and T2D in a population aged 30-69 years. Four hundred and twenty two subjects were recruited from the study and were stratified into 4 age- and gender-matched groups according to glucose tolerance test {normal glucose tolerance (NGT), impaired fasting glucose (IFG), impaired glucose tolerance (IGT) and T2D}. Results: Plasma hsCRP and NOx concentrations were significantly increased in T2D (p < 0.01) but not in IFG or IGT compared with NGT. In contrast, decrease in HMW-Adiponectin concentration occur in even IFG (p< 0.05) and much more in IGT and T2D (p < 0.01). By stepwise multiple regression analysis, HMW adiponectin was primarily associated with 2-h glucose and the homeostasis model of assessment of insulin resistance (HOMA-IR) (p < 0.001) independently with adiposity indices. Accordingly, metabolic risks across tertile of HMW adiponectin showed that the lowest tertile associated with a higher risk for insulin resistance (OR 1.73, [95% CI,1.36 to 2.20]), glucose intolerance (OR 1.45 [95% CI,1.14 to 1.84]), metabolic syndrome (OR 1.33 [95% CI,1.01 to 1.75]) and type 2 diabetes (OR 1.38 [95% CI, 1.03 to 1.85]) compared with the highest tertile of HMW adiponectin. Conclusion: Plasma hsCRP and NOx levels did not predict glucose intolerance or insulin resistance before the development of T2D. In contrast, HMW- Adiponectin is useful in predicting high-risk subjects for T2D, particularly among population with moderate BMI level like Vietnamese.