Đặc điểm nhân trắc của người Việt Nam mắc bệnh đái tháo đường type 2 và hội chứng chuyển hóa
Tỷ
lệ các bệnh mạn tính liên quan đến lối sống như đái tháo đường (ĐTĐ),
hội chứng chuyển hóa (HCCH), tim mạch ngày càng gia tăng nhanh ở Việt
Nam. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, béo phì
(dựa trên chỉ số khối cơ thể, BMI) là một trong những yếu tố nguy cơ của
các bệnh trên. Ngoài ra, gia tăng tỷ lệ mỡ trong cơ thể (đánh...
Tóm tắt tiếng Việt: Tỷ
lệ các bệnh mạn tính liên quan đến lối sống như đái tháo đường (ĐTĐ),
hội chứng chuyển hóa (HCCH), tim mạch ngày càng gia tăng nhanh ở Việt
Nam. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, béo phì
(dựa trên chỉ số khối cơ thể, BMI) là một trong những yếu tố nguy cơ của
các bệnh trên. Ngoài ra, gia tăng tỷ lệ mỡ trong cơ thể (đánh giá bằng
đo tỷ lệ phần trăm mỡ) và lượng mỡ dưới da, chủ yếu là mỡ quanh bụng
(đánh giá bằng việc đo lượng mỡ dưới da hay vòng eo) được xem là một
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng kháng insulin, yếu tố bệnh
sinh của các bệnh mạn tính. Một số nghiên cứu trên người châu Á, như Singapore, Trung Quốc, Indonesia
cho thấy so với người châu Âu có cùng chỉ số khối cơ thể, người châu Á
có tỷ lệ mỡ cao hơn. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có 1 bức tranh toàn
cảnh về các chỉ số nhân trắc ở người Việt Nam bị các bệnh mạn tính liên
quan đến lối sống, đặc biệt là ĐTĐ týp 2 và HCCH. Vì thế chúng tôi tiến
hành 1 tổng quan thu thập các nghiên cứu có đưa ra các chỉ số nhân trắc
trong ĐTĐ týp 2 và HCCH ở người Việt Nam được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành trong và ngoài nước từ khoảng đầu thế kỷ XX cho đến nay
nhằm phác thảo một bức tranh về các chỉ số nhân trắc ở người Việt Nam
mắc bệnh ĐTĐ và HCCH. Chỉ số khối cơ thể trung bình của bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 (mới phát hiện cũng như là bệnh nhân đã và đang điều trị) và bệnh
nhân mắc HCCH ở mức bình thường và tương đương với người không béo phì. Tuy nhiên, bệnh nhân mắc ĐTĐ có tỷ lệ phần trăm mỡ toàn cơ thể và chỉ số vòng eo trên trên vòng mông (WHR) cao hơn một cách có ý nghĩa so với người bình thường. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy ở bệnh nhân mắc HCCH. Tóm lại, người
bệnh ĐTĐ và HCCH có BMI tương tự người bình thường nhưng có WHR (E/M),
vòng eo (WC) và tỷ lệ phần trăm mỡ toàn cơ thể cao hơn người bình thường
một cách có ý nghĩa. Đây có thể là đặc điểm riêng của người bệnh ĐTĐ và
HCCH ở Việt Nam. Tuy nhiên giả thuyết này cần được kiểm chứng thêm.
Ngoài ra, do việc tích lũy mỡ trung tâm, biểu hiện qua gia tăng chỉ số
vòng eo hoăc tỷ số WHR cũng như tích lũy mỡ tòan cơ thể, biểu hiện bằng
phần trăm tỷ lệ mỡ, có liên quan chặt với tình trạng rối lọan chuyển hóa
đường và đề kháng insulin, thông qua tổng quan này, chúng tôi mong muốn
chương trình tầm sóat, phòng chống và can thiệp các bệnh mạn tính không
lây ở nước ta nên chú ý nhiều đến 3 chỉ số nhân trắc: tỷ lệ phần trăm
mỡ toàn cơ thể, vòng eo và chỉ số vòng eo trên vòng hông, nhằm đưa ra
khuyến cáo cũng như chiến lược hợp lý. Tỷ
lệ các bệnh mạn tính liên quan đến lối sống như đái tháo đường (ĐTĐ),
hội chứng chuyển hóa (HCCH), tim mạch ngày càng gia tăng nhanh ở Việt
Nam. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, béo phì
(dựa trên chỉ số khối cơ thể, BMI) là một trong những yếu tố nguy cơ của
các bệnh trên. Ngoài ra, gia tăng tỷ lệ mỡ trong cơ thể (đánh giá bằng
đo tỷ lệ phần trăm mỡ) và lượng mỡ dưới da, chủ yếu là mỡ quanh bụng
(đánh giá bằng việc đo lượng mỡ dưới da hay vòng eo) được xem là một
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng kháng insulin, yếu tố bệnh
sinh của các bệnh mạn tính. Một số nghiên cứu trên người châu Á, như Singapore, Trung Quốc, Indonesia
cho thấy so với người châu Âu có cùng chỉ số khối cơ thể, người châu Á
có tỷ lệ mỡ cao hơn. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có 1 bức tranh toàn
cảnh về các chỉ số nhân trắc ở người Việt Nam bị các bệnh mạn tính liên
quan đến lối sống, đặc biệt là ĐTĐ týp 2 và HCCH. Vì thế chúng tôi tiến
hành 1 tổng quan thu thập các nghiên cứu có đưa ra các chỉ số nhân trắc
trong ĐTĐ týp 2 và HCCH ở người Việt Nam được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành trong và ngoài nước từ khoảng đầu thế kỷ XX cho đến nay
nhằm phác thảo một bức tranh về các chỉ số nhân trắc ở người Việt Nam
mắc bệnh ĐTĐ và HCCH. Chỉ số khối cơ thể trung bình của bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 (mới phát hiện cũng như là bệnh nhân đã và đang điều trị) và bệnh
nhân mắc HCCH ở mức bình thường và tương đương với người không béo phì. Tuy nhiên, bệnh nhân mắc ĐTĐ có tỷ lệ phần trăm mỡ toàn cơ thể và chỉ số vòng eo trên trên vòng mông (WHR) cao hơn một cách có ý nghĩa so với người bình thường. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy ở bệnh nhân mắc HCCH. Tóm lại, người
bệnh ĐTĐ và HCCH có BMI tương tự người bình thường nhưng có WHR (E/M),
vòng eo (WC) và tỷ lệ phần trăm mỡ toàn cơ thể cao hơn người bình thường
một cách có ý nghĩa. Đây có thể là đặc điểm riêng của người bệnh ĐTĐ và
HCCH ở Việt Nam. Tuy nhiên giả thuyết này cần được kiểm chứng thêm.
Ngoài ra, do việc tích lũy mỡ trung tâm, biểu hiện qua gia tăng chỉ số
vòng eo hoăc tỷ số WHR cũng như tích lũy mỡ tòan cơ thể, biểu hiện bằng
phần trăm tỷ lệ mỡ, có liên quan chặt với tình trạng rối lọan chuyển hóa
đường và đề kháng insulin, thông qua tổng quan này, chúng tôi mong muốn
chương trình tầm soát, phòng chống và can thiệp các bệnh mạn tính không
lây ở nước ta nên chú ý nhiều đến 3 chỉ số nhân trắc: tỷ lệ phần trăm
mỡ toàn cơ thể, vòng eo và chỉ số vòng eo trên vòng hông, nhằm đưa ra
khuyến cáo cũng như chiến lược hợp lý.
English summary: The
rate of lifestyle related chronic diseases such as diabetes, metabolic
syndrome, cardio-vascular diseases is on the rise in Vietnam. Many
studies over the world as well in Vietnam have shown that obesity
(identified by BMI) is a risk factor. Besides, increased body and
subcutaneous fat (mainly abdominal fat) is considered one among causes
of insulin resistance–a causal factor of chronic diseases. Compared to
European people with the same BMI, Asian people often have higher
proportion of body fat. However, until now, there has been no panoramic
picture on anthropometric characteristics of Vietnamese people
with those chronic diseases, particularly diabetes type 2 and metabolic
syndrome. This literature review aims to draw this picture from
international and domestic publications since the 1990s. Average BMI of
patients with diabetes type 2 and metabolic syndrome is normal, similar
to that of non-obese people. However, they have a higher proportion of
body fat and WHR compared to normal people. It is recommended that with
Vietnamese programs to control non-communicable chronic diseases, 3
indicators that should be paid attention are proportion of body fat,
waist length, and WHR so that proper recommendation and approach will be
made.
English summary: The
rate of lifestyle related chronic diseases such as diabetes, metabolic
syndrome, cardio-vascular diseases is on the rise in Vietnam. Many
studies over the world as well in Vietnam have shown that obesity
(identified by BMI) is a risk factor. Besides, increased body and
subcutaneous fat (mainly abdominal fat) is considered one among causes
of insulin resistance–a causal factor of chronic diseases. Compared to
European people with the same BMI, Asian people often have higher
proportion of body fat. However, until now, there has been no panoramic
picture on anthropometric characteristics of Vietnamese people
with those chronic diseases, particularly diabetes type 2 and metabolic
syndrome. This literature review aims to draw this picture from
international and domestic publications since the 1990s. Average BMI of
patients with diabetes type 2 and metabolic syndrome is normal, similar
to that of non-obese people. However, they have a higher proportion of
body fat and WHR compared to normal people. It is recommended that with
Vietnamese programs to control non-communicable chronic diseases, 3
indicators that should be paid attention are proportion of body fat,
waist length, and WHR so that proper recommendation and approach will be
made.