Dinh dưỡng và miễn dịch học: Quan hệ tương tác cho một cơ thể khỏe mạnh.
Trong
lịch sử có nhiều chứng cứ chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa dinh dưỡng
và hệ thống miễn dịch trong việc duy trì một cơ thể khỏe mạnh. Vào cuối thế
kỷ 15, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Vasco Da Gama cùng đoàn thủy thủ thực hiện
chuyến thám hiểm từ châu Âu đến Ấn Độ. Cuối cuộc hành trình, 1/3 thủy thủ
đã chết vì bệnh scurvy do thiếu...
Tóm tắt tiếng Việt: Trong
lịch sử có nhiều chứng cứ chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa dinh dưỡng
và hệ thống miễn dịch trong việc duy trì một cơ thể khỏe mạnh. Vào cuối thế
kỷ 15, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Vasco Da Gama cùng đoàn thủy thủ thực hiện
chuyến thám hiểm từ châu Âu đến Ấn Độ. Cuối cuộc hành trình, 1/3 thủy thủ
đã chết vì bệnh scurvy do thiếu vitamin C, một căn bệnh xảy ra phổ biến ở
các thủy thủ sống trên biển lâu hơn thời gian có thể bảo quản các loại trái
cây và rau quả chưa bị hư hỏng. Mệt mỏi, xuất huyết niêm mạc, rụng
răng, vàng da, sốt, bệnh lý thần kinh và tử vong là các triệu chứng kinh điển
của những bệnh nhân mắc bệnh scurvy. Vào đầu thế kỷ 20, beriberi, một căn
bệnh ảnh hưởng đến cả tim mạch và hệ thần kinh ngoại biên đã được các nhà khoa
học Hà Lan Christiaan Eijkman và Adolphe Guillaume Vorderman chứng minh là do sự thiếu hụt vitamin B1.
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh beriberi bao gồm sụt cân, rối loạn nhận
thức, phù nề, suy nhược và đau ở các chi, rối loạn nhịp tim, suy tim và tử
vong. Từ quan sát hiệu quả của ăn gan
sống giúp chữa trị bệnh thiếu máu nặng người ta đã phát hiện nguyên nhân
của căn bệnh này là do sự thiếu hụt vitamin B12. Sau này, nhiều báo cáo cho thấy
sự thiếu hụt vitamin A xảy ra phổ biến ở các nước châu Á, châu Phi có thể
dẫn đến nguy cơ bị các bệnh lí nhiễm trùng đường tiêu hóa và đường hô hấp
đặc biệt là ở trẻ em và phụ nữ mang thai. Hơn một thập kỷ qua, có nhiều bằng
chứng khoa học đã chứng minh vai trò của các tế bào miễn dịch trong cân bằng
nội môi của mô. Các tế bào miễn dịch thâm nhập vào tất cả hệ thống trong
cơ thể và có vai trò trong tất cả bệnh mà chúng ta biết đến. Sự kích hoạt
hệ thống miễn dịch đòi hỏi một số lượng lớn các chất dinh dưỡng nhằm cung cấp
nhiên liệu cho nhiều quá trình chuyển hóa, đây là lý do các chất dinh
dưỡng có ảnh hưởng toàn diện đến hoạt động miễn dịch. Thực tế cho thấy suy dinh dưỡng là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy yếu của
hệ thống miễn dịch, ví dụ thiếu vitamin A có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
của lympho T regulatory và lympho B trong ruột. "Chế độ ăn phương Tây” bao
gồm tiêu thụ nhiều thịt đỏ, đường, chất béo, carbohydrate tinh chế,
ăn ít rau, trái cây và cá đã được chứng minh tương quan thuận với tình
trạng viêm mạn tính trong bệnh đái tháo đường và hen suyễn. Một nghiên cứu mới đây nhất cho thấy chế độ
ăn ảnh hưởng tới
cân bằng nội môi của hệ miễn dịch qua việc ngăn ngừa các phản ứng miễn dịch quá mức với những kháng nguyên vô hại. Các
bệnh dị ứng phát triển thông
qua một tương tác phức tạp giữa các chất dinh dưỡng,
chuyển hóa và
tế bào miễn dịch. “Chế độ ăn phương Tây” với nhiều axit béo bão hòa
và cholesterol làm trầm trọng thêm các
bệnh dị ứng như viêm da dị ứng,viêm mũi dị ứng, hen suyễn. “Chế độ ăn vùng Địa Trung Hải” với
nhiều axit béo không bão hòa, chất xơ và vitamin giúp bảo vệ
và ngăn ngừa các bệnh dị ứng. Trong những năm đầu đời, sự mất
cân bằng về dinh dưỡng (cả thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng) có thể làm
tăng nguy cơ các bệnh không lây nhiễm như bệnh đái tháo đường và bệnh thận
khi trưởng thành. Tình trạng thiếu dinh dưỡng ở người mẹ khi mang thai
có thể ảnh hưởng đến sự phát triển thận của thai nhi thể hiện qua giảm số
lượng các cầu thận ở con. Một thách thức lớn hiện nay là
khuyến nghị về thành phần dinh dưỡng tối ưu do các dữ liệu nghiên
cứu còn hạn chế. Một trong những thách thức lớn đối với dinh dưỡng miễn
dịch là xác định mối liên kết phân tử giữa các chất dinh dưỡng và các tế bào
của hệ thống miễn dịch để tạo thành nền tảng của miễn dịch bảo vệ. Chế độ ăn của con người có thể được
phân loại thành 2 nhóm căn cứ trên nền tảng "động
vật " và " thực vật Chế độ ăn dựa trên động vật chủ yếu bao
gồm thịt, trứng và pho mát trong khi chế độ ăn dựa trên thực vật bao gồm ngũ
cốc, đậu, trái cây và rau quả. Vi sinh vật trong thực phẩm như vi khuẩn, nấm và
virus từ cả hai chế độ ăn có thể xâm chiếm ruột thoáng qua và đáp ứng nhanh
chóng với sự thay đổi của chế độ ăn uống. Tuy nhiên, chế độ ăn uống có thể ảnh
hưởng đến cấu trúc và hoạt động của hàng nghìn tỷ các vi sinh vật cư trú trong
ruột của con người. Ruột của con người được bảo vệ khỏi các vi khuẩn thông
qua lớp chất nhầy nằm trên đỉnh của biểu mô niêm mạc ruột. Các chất tạo nhũ
hóa như carboxymethylcellulose và polysorbate-80 có thành phần giống phân tử
của các chất tẩy rửa và hiện diện phổ biến trong các thực phẩm chế biến sẵn.
Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy các chất nhũ hoá nầy có thể gây ra tình
trạng viêm, béo phì, hội chứng chuyển hóa và viêm đại tràng. Những biểu
hiện ny có thể liên quan với sự xâm nhập và thay đổi thành phần của các vi
sinh vật. Một thành phần khác cũng được
sử dụng đại trà trong sản xuất thực phẩm trên toàn thế giới là chất tạo
vị ngọt nhân tạo không calo như saccharin, sucralose, aspartame. Các nghiên
cứu trên chuột và người cũng đã chứng minh rằng sử dụng chất tạo vị ngọt
nhân tạo không calo thúc đẩy tình trạng không dung nạp glucose thông qua sự
thay đổi về thành phần và chức năng của các vi sinh vật đường ruột, vì vậy
các tác giả đã đề nghị cần phải xem xét lại việc sử dụng đại trà của
chất tạo vị ngọt nhân tạo không calo trong sản xuất thực phẩm hiện nay. Về sự liên kết giữa hệ vi sinh vật
đường ruột và ung thư, nhiều nghiên cứu cho rằng hệ vi sinh vật đường
ruột góp phần vào nguyên nhân gây ung thư đại trực tràng thông qua tình trạng
viêm, tổn thương DNA và chết theo chương trình. Chế độ ăn uống nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn, chất béo và
rượu có liên quan với việc tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Axít béo chuỗi
ngắn như acetate, propionate và butyrate đã được chứng minh có khả năng
ngăn chặn tình trạng viêm và ung thư do tác dụng kháng viêm, góp phần cho sự
cân bằng nội môi của vi sinh vật đường ruột. Nồng độ của những axít béo chuỗi
ngắn trong đường ruột chịu ảnh hưởng bởi thành phần và số lượng dinh dưỡng
ăn vào. Trái lại, axit deoxycholic và lithocholic thuộc nhóm các axit
mật đã dehydrogenated và dehydroxylated bởi các vi khuẩn đường ruột (hậu quả
của chế độ ăn uống nhiều chất béo) có thể kích thích sự phát triển ung thư
do việc gia tăng sản xuất reactive
oxygen species (ROS) và reactive nitrogen species (RNS). Cả ROS và RNS đều gây
tổn thương DNA. Những nghiên cứu nêu trên đã chứng
minh rằng có một mối liên kết chặt chẽ giữa hệ sinh thái vi sinh vật và
chức năng của hệ miễn dịch. Chế độ ăn
uống " ít chất xơ " trong xã hội hiện đại có thể đã bỏ đói những
vi sinh vật tốt trong cơ thể của chúng ta.
Faecalibacterium prausnitzi gần đây đã được báo cáo có tác dụng kháng viêm-
một yếu tố quan trọng đối với sức khỏe đường ruột và sự cân bằng của hệ
thống miễn dịch. Vấn đề quan trọng cho sức khỏe của
chúng ta không phải chỉ là những gì có trong thực phẩm mà còn là những gì bị
thiếu vắng [9]. Một nghiên cứu lớn gần đây nhất tại Toronto, Canada đã
chứng minh rằng một chế độ ăn uống nhiều chất béo làm thay đổi hệ thống miễn
dịch đường ruột bằng cách gây tình trạng viêm tiền lâm sàng ở mức độ thấp.
Các chế độ ăn uống gây ra béo phì kích thích sự
phát triển của phản ứng viêm thông qua sự thay đổi quần thể
tế bào miễn dịch trong đường ruột và làm gia tăng độ thẩm thấu của ruột. Sự
kích hoạt phản ứng viêm ở ruột sẽ ảnh hưởng lên các đường dẫn
truyền liên kết và dẫn đến bệnh béo phì hoặc đề kháng insulin. Việc
điều trị bằng 5-aminosalicylic acid (5-ASA) có thể làm giảm tình trạng viêm
ruột, dẫn đến việc giảm viêm mô mỡ nội tạng và giúp cải thiện cân bằng chuyển hóa
nội môi. Hơn 20 năm trước, một hội đồng
chuyên gia đã khẳng định rằng các
khuyến cáo về dinh dưỡng phải dựa trên bằng chứng khoa học để hạn chế tranh
luận. Sau 20 năm, thật đáng tiếc cho đến hôm nay vấn đề này vẫn còn
là đề tài có nhiều tranh luận thậm
chí còn nhiều trước đây (khuyến cáo về số lượng vitamin D và muối tiêu
thụ là hai ví dụ về việc thiếu đồng
thuận). Mặc dù chiến lược nghiên cứu rộng
lớn là đúng, tuy nhiên có thể có các lỗ hổng hoặc lỗi tiềm tàng bên
trong các nghiên cứu tạo nên bằng chứng. Với mục tiêu áp dụng phương pháp
nghiên cứu y khoa dựa trên bằng chứng vào nghiên cứu về dinh dưỡng,
một bộ qui tắc hoặc quy định chính xác mới về các chất dinh dưỡng
áp dụng cho các nghiên cứu về dinh dưỡng cần được phát triển. Một số khuyến
nghị cơ bản cho một nghiên cứu dinh dưỡng lý tưởng như sau: Tình trạng
dinh dưỡng cơ bản cần được đo lường và sử dụng như tiêu chuẩn chọn lựa đối
tượng tham gia nghiên cứu và được đưa vào báo cáo nghiên cứu. Việc
đáp ứng với những thay đổi về dinh dưỡng sẽ phụ thuộc vào tình trạng dinh
dưỡng ban đầu của mỗi cá thể. Những thay
đổi về lượng các chất dinh dưỡng ăn vào (ví dụ như trong các nghiên
cứu can thiệp) phải đủ lớn để đi đến khuyến nghị thay đổi khẩu phần bổ
sung. Tình trạng
dinh dưỡng đi kèm phải được tối ưu hóa để đảm bảo chất dinh dưỡng được nghiên
cứu chính là nguồn dinh dưỡng duy nhất liên quan, là yếu tố duy nhất trong
kết quả nhận xét (ví dụ như việc tăng xương do canxi và vitamin
D phụ thuộc vào tình trạng đạm của cơ thể).
English summary: Historically, evidences
have demonstrated a close relationship between nutrition and the effective
functions of our immune system in keeping our body healthy. In fact, it has
been fully accepted that the immune cells infiltrate every bodily system and
have a role in every disease that we know so far. The activation of the immune
system requires large amount of nutrients to fuel multiple metabolic pathways.
In fact, malnutrition represents the most common cause of Immunodeficiency, for
example, vitamin. The most recent review indicates that diet can influence the
immune homeostasis by inducing oral tolerance & preventing overt reactions
to harmless antigens. One of the major challenges for Nutritional Immunology is
to define the molecular links between nutrients and cells of the immune system
that form the foundation of Protective Immunity. The human intestine is
protected from the microbes via the layer of mucus that resides on top of the
gut epithelial lining. Emulsifiers such as Carboxymethylcellulose and
Polysorbate-80 are detergent like molecules and represent ubiquitous components
of the processed foods. Recent studies have shown that these emulsifiers can
induce low grade inflammation, obesity, metabolic syndrome, promote colitis. In
regards to the link between the gut microbiota and cancer, it has been reported
that the intestinal microbiota contributes to the etiology of Colorectal Cancer
(CRC) via inflammation, DNA damage & Apoptosis. Diets that are rich in red & processed
meat, fat and alcohol are associated with the increased risk for CRC. The gut
concentrations of these SCFAs are influenced by the diet composition &
intake. In contrast, Deoxycholic and Lithocholic acids which represent bile
acids that are dehydrogenated and dehydroxylated by the gut bacteria (as the
result of high Fat diet) can promote carcinogenesis due to their generation of
Reactive Oxygen Species (ROS) and Reactive Nitrogen Species (RNS). Both ROS and
RNS cause DNA damage.
From the above studies,
it is evidenced that there is a close relationship between the microbial
ecosystem and the function of the immune system. The “fiber poor” diet in our
modern society may have starved our good microbiota. Faecalibacterium prausnitzi has been recently reported to produce
an anti-inflammatory response which is important for our gut health and
balanced immune system; this bacterium has been considered as a “peace keeping”
microbe. It is not only what is in our food that matters for our health, but
also what is missing. The most recent large study in Toronto, Canada has
demonstrated that a high fat diet can alter the gut immune system by inducing a
low-grade subclinical inflammation. The diet induced obesity (DIO) promotes a
pro-inflammatory shift in the gut immune cell populations which causes the
increased in gut permeability. The active gut inflammation influences the
downstream pathways and leads to obesity or insulin resistance. Treating with
5-aminosalicylic acid (5-ASA) can help to reduce this low-grade gut
inflammation, leading to the reduction of Visceral Adipose Tissue (VAT)
inflammation and improvements in the metabolic homeostasis. Over 20 years ago, an
expert committee decided that nutrient intake recommendations must be
explicitly based on evidence to reduce the potential for controversy;
unfortunately, today the topic is even more controverted than 20 years ago (eg.
Vitamin D and Salt intake recommendations are 2 examples of such lack of
agreements). It has been suggested that the broad strategy was correct;
however, the flaw or mistake may reside in the studies that make up the
evidence. Subsequently, with the objective of applying the methods of
evidence-based medicine to nutritional research, a set of new rules or
guidelines specific for nutrient have been developed. Some of the key
recommendations for an ideal nutritional research are as followed: The participant basal nutrient status must be
measure/used as inclusion criteria for study entry and recorded in the trial
report. The response to a change in the intake will depend upon an individual’s
starting nutritional status. The change in nutrient exposure or intake (ie.
the intervention) must be large enough to recommend the change in nutrient status The conutrient status must be optimized to
ensure that the test nutrient is the only nutrition-related, limiting factor in
the response (eg. Bone gain to Calcium and Vitamin D depends upon protein
status).
English summary: Historically, evidences
have demonstrated a close relationship between nutrition and the effective
functions of our immune system in keeping our body healthy. In fact, it has
been fully accepted that the immune cells infiltrate every bodily system and
have a role in every disease that we know so far. The activation of the immune
system requires large amount of nutrients to fuel multiple metabolic pathways.
In fact, malnutrition represents the most common cause of Immunodeficiency, for
example, vitamin. The most recent review indicates that diet can influence the
immune homeostasis by inducing oral tolerance & preventing overt reactions
to harmless antigens. One of the major challenges for Nutritional Immunology is
to define the molecular links between nutrients and cells of the immune system
that form the foundation of Protective Immunity. The human intestine is
protected from the microbes via the layer of mucus that resides on top of the
gut epithelial lining. Emulsifiers such as Carboxymethylcellulose and
Polysorbate-80 are detergent like molecules and represent ubiquitous components
of the processed foods. Recent studies have shown that these emulsifiers can
induce low grade inflammation, obesity, metabolic syndrome, promote colitis. In
regards to the link between the gut microbiota and cancer, it has been reported
that the intestinal microbiota contributes to the etiology of Colorectal Cancer
(CRC) via inflammation, DNA damage & Apoptosis. Diets that are rich in red & processed
meat, fat and alcohol are associated with the increased risk for CRC. The gut
concentrations of these SCFAs are influenced by the diet composition &
intake. In contrast, Deoxycholic and Lithocholic acids which represent bile
acids that are dehydrogenated and dehydroxylated by the gut bacteria (as the
result of high Fat diet) can promote carcinogenesis due to their generation of
Reactive Oxygen Species (ROS) and Reactive Nitrogen Species (RNS). Both ROS and
RNS cause DNA damage.
From the above studies,
it is evidenced that there is a close relationship between the microbial
ecosystem and the function of the immune system. The “fiber poor” diet in our
modern society may have starved our good microbiota. Faecalibacterium prausnitzi has been recently reported to produce
an anti-inflammatory response which is important for our gut health and
balanced immune system; this bacterium has been considered as a “peace keeping”
microbe. It is not only what is in our food that matters for our health, but
also what is missing. The most recent large study in Toronto, Canada has
demonstrated that a high fat diet can alter the gut immune system by inducing a
low-grade subclinical inflammation. The diet induced obesity (DIO) promotes a
pro-inflammatory shift in the gut immune cell populations which causes the
increased in gut permeability. The active gut inflammation influences the
downstream pathways and leads to obesity or insulin resistance. Treating with
5-aminosalicylic acid (5-ASA) can help to reduce this low-grade gut
inflammation, leading to the reduction of Visceral Adipose Tissue (VAT)
inflammation and improvements in the metabolic homeostasis. Over 20 years ago, an
expert committee decided that nutrient intake recommendations must be
explicitly based on evidence to reduce the potential for controversy;
unfortunately, today the topic is even more controverted than 20 years ago (eg.
Vitamin D and Salt intake recommendations are 2 examples of such lack of
agreements). It has been suggested that the broad strategy was correct;
however, the flaw or mistake may reside in the studies that make up the
evidence. Subsequently, with the objective of applying the methods of
evidence-based medicine to nutritional research, a set of new rules or
guidelines specific for nutrient have been developed. Some of the key
recommendations for an ideal nutritional research are as followed: The participant basal nutrient status must be
measure/used as inclusion criteria for study entry and recorded in the trial
report. The response to a change in the intake will depend upon an individual’s
starting nutritional status. The change in nutrient exposure or intake (ie.
the intervention) must be large enough to recommend the change in nutrient status The conutrient status must be optimized to
ensure that the test nutrient is the only nutrition-related, limiting factor in
the response (eg. Bone gain to Calcium and Vitamin D depends upon protein
status).