Mục tiêu: Nghiên cứu thực hiện nhằm thử nghiệm hệ thống theo dõi giám sát dinh dưỡng theo công nghệ số 4.0 trong khuôn khổ đề tài cấp nhà nước KC 4.0-13/19-25 “Nghiên cứu xây dựng hệ thống theo dõi giám sát, tư vấn thông minh về dinh dưỡng cho người Việt Nam và một số nhóm người bệnh”.
Phương pháp: Thử nghiệm được tiến hành tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Hải Phòng. Cán bộ y tế của CDC Hải Phòng sử dụng phiếu thu thập thông tin giám sát dinh dưỡng hằng năm của năm 2023 để nhập và xuất báo cáo trên hệ thống mới xây dựng, các kết quả hoạt động của hệ thống sau đó được tổng hợp và hiệu quả của hệ thống được đánh giá thông qua phòng vấn cán bộ y tế tham gia thử nghiệm và so sánh các chỉ số kết quả.
Kết quả: Hệ thống theo dõi giám sát đã đảm bảo được tính đầy đủ và chính xác nhưng cần cải thiện về giao diện và tính năng nhập liệu. Hệ thống mới nhập chậm hơn nhưng có kết quả báo cáo ngay tuy nhiên cần kiểm tra lại một số công thức tính toán các chỉ số về nuôi dưỡng trẻ nhỏ. Cần bổ sung thêm tính năng gắn nhãn cảnh bảo khi các số liệu dưới hoặc vượt ngưỡng hoặc có điểm bất thường.
Kết luận: Hoạt động của hệ thống còn có một số lỗi nhỏ về thao tác, khả năng đáp ứng chấp nhận được, tương thích trên các trình duyệt phổ biến nhưng thao tác nhập số liệu khó sử dụng. So với hệ thống báo cáo hiện hành, hệ thống này rút ngắn hơn về thời gian báo cáo và độ chinh xác tương đương. Cần tiếp tục chỉnh sửa và hoàn thiện hệ thống theo dõi giám sát dinh dưỡng theo công nghệ số 4.0.
Aims: The research is conducted to test the nutrition monitoring and surveillance system using digital technology 4.0 within the framework of the state-level project KC 4.0-13/19-25 "Research on building an intelligence nutrition monitoring, surveillance and consulting system for Vietnamese people and some patient groups".
Methods: The testing was conducted at the Center for Disease Control (CDC) Hai Phong. Hai Phong CDC nutrition officers used the 2023 annual surveillance data to enter and export reports on the newly built system. The system's operating results are then synthesized and evaluated through interviewing testing staff and comparing the indicators.
Results: The results show that the surveillance system has ensured completeness and accuracy, but needs improvement in the interface and data input features. The new system is slower to enter but reports results immediately. However, some formulas for calculating infant and young child feeding indicators need to be rechecked. It is necessary to add a warning label feature when the data is below or exceeds the threshold or there are abnormalities.
Conclusion: The system's operation has some minor errors in operation, responsiveness is acceptable, compatible with popular browsers, but data entry operations are slightly difficult to use. Comparing to the current reporting system, this system has shorter reporting time and equivalent accuracy. It is necessary to continue to revise and finalize the nutrition monitoring system using digital technology 4.0.