Tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi và thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em dưới 2 tuổi vùng Núi Phía Bắc và Tây Nguyên.
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng SDD thấp còi và thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em dưới 2 tuổi tại Vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên. Phương pháp:
Nghiên cứu bệnh chứng tại cộng đồng được thực hiện trên 600 trẻ dưới 2
tuổi bao gồm nhóm bệnh (thấp còi) và nhóm chứng (trẻ không thấp còi) tại
4 tỉnh khó khăn (Lào Cai và Lai Châu của vùng núi phía Bắc;...
Tóm tắt tiếng Việt: Mục tiêu: Đánh giá thực trạng SDD thấp còi và thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em dưới 2 tuổi tại Vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên. Phương pháp:
Nghiên cứu bệnh chứng tại cộng đồng được thực hiện trên 600 trẻ dưới 2
tuổi bao gồm nhóm bệnh (thấp còi) và nhóm chứng (trẻ không thấp còi) tại
4 tỉnh khó khăn (Lào Cai và Lai Châu của vùng núi phía Bắc; Gia Lai và
Kontum của Tây Nguyên). Toàn bộ trẻ dưới 2 tuổi tại địa bàn nghiên cứu
được đo cân nặng và chiều cao để sàng lọc và đưa vào nhóm nghiên cứu. Kết quả:
Tỷ lệ trẻ <2 tuổi SDD thấp còi rất cao (41,3%), trong đó trẻ trai có
tỷ lệ thấp còi cao hơn trẻ gái khoảng 3% (p<0,05) và tỷ lệ này tăng
nhanh theo nhóm tuổi từ 22% ở nhóm 0-5 tháng đến 62% ở nhóm 18-23 tháng
(p<0,01). Tỷ lệ trẻ < 2 tuổi SDD nhẹ cân là 24,8%, trong đó trẻ
trai có tỷ lệ SDD nhẹ cân cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bé gái với
p<0,01 (29,1% so với 19,9%) và tỷ lệ này tăng dần theo nhóm tuổi từ
15% ở nhóm 0-5 tháng đến 32% ở nhóm 18-23 tháng. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ
<2 tuổi rất cao (58,6%) và tỷ lệ này giảm dần theo tuổi, cao nhất ở
nhóm trẻ 0-5 tháng tuổi (75%) và thấp nhất ở nhóm trẻ từ 18-23 tháng
(41,6%) với p<0,01. Tỷ lệ trẻ thiếu máu do thiếu sắt là 33,9%, trong
đó trẻ trai bị thiếu máu cao hơn so với trẻ gái (39,9% và 26,6%), tỷ lệ
dự trữ sắt cạn kiệt chung là 36,6%, trong đó bé trai cao gần gấp đôi bé
gái (44,8% so với 27,8%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p< 0,05. Tỷ lệ thiếu kẽm là 49,5%, tuy nhiên không có sự khác biệt
theo nhóm trẻ và giới (p>0,05) và nhóm trẻ 6-11 tháng có tỷ lệ thiếu
kẽm cao nhất (52,9%). Kết luận: Thấp còi, thiếu máu, thiếu kẽm là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ở trẻ dưới 2 tuổi tại địa bàn nghiên cứu.
English summary: The
study aimed to assess the situation of stunting and micro-nutrient
deficiencies among children under 2 in Northern Mountain and Central
Highland. Disease-control study design was applied on 600 children under
with disease group (stunted children) and controlled group (non stunted
children) in 4 disadvantaged provinces (Lao Cai and Lai Chau in the
Northern Mountain; Gia Lai and Kon Tum of Central Highland). All children
fewer than 2 in selected sites were screened by measuring weight and
height to to be assigned in 2 study groups. Results showed that the rate
of under 2 stunting was very high (41.3%), of which boys had 3% higher
rate than girls (p<0.05). The rate increased steadily by age group,
from 22% in 0-5 months old group to 62% in 18-23 months old group
(p<0.01). The underweight rate of children under 2 was 24.8%, of
which boys’ rate was significantly higher than girls’ (29.1% vs. 19.9%,
p<0.01). It increased gradually from 15% in 0-5 months old to 32% in
18-23 months old. Anemia prevalence in children under 2 was very high as
58.6% and it reduced gradually by age, i.e. highest among children 0-5
months (75%) and lowest among children 18-23 months (41.6%), p<0.01.
Iron deficiency anemia was 33.9%, of which boys had a higher rate than
girls (33.9% vs. 26.6%), total iron depletion rate was 36.6% (boys had
almost 2 times higher than girls, 44.8% vs. 27.8%) with p<0.01. Zinc
deficiency was 49.5% but there was no difference among child groups and
sex, children 6-11 months old had the highest Zinc deficiency rate
(52.9%). Conclusion: stunting, anemia, zinc deficiency are public health concerns of children under 2 in study areas.
English summary: The
study aimed to assess the situation of stunting and micro-nutrient
deficiencies among children under 2 in Northern Mountain and Central
Highland. Disease-control study design was applied on 600 children under
with disease group (stunted children) and controlled group (non stunted
children) in 4 disadvantaged provinces (Lao Cai and Lai Chau in the
Northern Mountain; Gia Lai and Kon Tum of Central Highland). All children
fewer than 2 in selected sites were screened by measuring weight and
height to to be assigned in 2 study groups. Results showed that the rate
of under 2 stunting was very high (41.3%), of which boys had 3% higher
rate than girls (p<0.05). The rate increased steadily by age group,
from 22% in 0-5 months old group to 62% in 18-23 months old group
(p<0.01). The underweight rate of children under 2 was 24.8%, of
which boys’ rate was significantly higher than girls’ (29.1% vs. 19.9%,
p<0.01). It increased gradually from 15% in 0-5 months old to 32% in
18-23 months old. Anemia prevalence in children under 2 was very high as
58.6% and it reduced gradually by age, i.e. highest among children 0-5
months (75%) and lowest among children 18-23 months (41.6%), p<0.01.
Iron deficiency anemia was 33.9%, of which boys had a higher rate than
girls (33.9% vs. 26.6%), total iron depletion rate was 36.6% (boys had
almost 2 times higher than girls, 44.8% vs. 27.8%) with p<0.01. Zinc
deficiency was 49.5% but there was no difference among child groups and
sex, children 6-11 months old had the highest Zinc deficiency rate
(52.9%). Conclusion: stunting, anemia, zinc deficiency are public health concerns of children under 2 in study areas.