The study aims to assess the nutritional status and current nutrition care for cancer patients treated at the Hanoi Oncology Hospital in 2016.
Tạp chí DD&TP/Journal of Food and Nutrition Sciences - Tập 13 - Số 4 - Tháng 6/ Vol.13 - No.4 - June - Năm 2017/ Year 2017
English summary: The study aims to assess the nutritional status and current nutrition care for cancer patients treated at the Hanoi Oncology Hospital in 2016. Method: This cross-sectional study was conducted from May to October 2016 in cancer patients in Hanoi Oncology Hospital. Results: The prevalence of malnutrition defined by BMI was 37.2%; 47.4% was normal and 15.4 was overweight. Those who provide nutrition care for patients were mainly family members which accounted for 73.5%; Food source for patients provided by the hospital canteen was 44.6% and by the facilities outside the hospital was 34.2%, and by the families was 21.2%. 89.5% of patients received nutritional counselling and mainly from the medical staff: 93.9%. There was an association between malnutrition situation and gender, education level and location of cancer (p <0.05). Conclusions: Prevalence of malnutrition in cancer patients is high especially in those with gastrointestinal cancer. The nutritional status of patients should be regularly assessed and nutrition intervention plans need to be undertaken at the departments, in particular to diseases with high risk of malnutrition.
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng và tình hình chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội năm 2016.
Tạp chí DD&TP/Journal of Food and Nutrition Sciences - Tập 13 - Số 4 - Tháng 6/ Vol.13 - No.4 - June - Năm 2017/ Year 2017
Tóm tắt tiếng Việt: Mục tiêu: Đánh giá tình trạng và tình hình chăm sóc dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội năm 2016. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích đã được tiến hành qua phỏng vấn, cân và đo chiều cao của 325 BNUT điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2016. Kết quả: Tỉ lệ SDD tính theo BMI là 37,2%; BT là 47,4% và thừa cân là 15,4%. Người chăm sóc dinh dưỡng của BN chủ yếu là người thân trong gia đình (73,5%); Nguồn thức ăn chủ yếu cho BN sử dụng từ căng tin bệnh viện là 44,6% và ngoài bệnh viện là 34,2%; từ gia đình là 21,2%. Có 89,5% BN được tư vấn dinh dưỡng và chủ yếu được nghe từ nhân viên y tế chiếm tỷ lệ 93,9%. Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng với giới tính, trình độ học vấn và vị trí ung thư (p<0,05). Kết luận: BNUT có tình trạng SDD cao đặc biệt là BN mắc ung thư đường tiêu hóa. Cần đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho bệnh nhân thường xuyên và có kế hoạch can thiệp dinh dưỡng tại các khoa, các nhóm bệnh có nguy cơ SDD.