CỔNG THÔNG TIN DINH DƯỠNG QUỐC GIA

VIETNAM NUTRITIONAL PORTAL

The situation of fungus contamination on peanut and soybean knowledgement and practicing on prevention of food fungus contamination among people in some communes, Kienxuong district, Thaibinh province
84 views
share

The study was implemented in 3 communes of Kien Xuong district, Thai Binh province. Sampling was  randomly  selected by cluters of households to direct interview 610 heads of households, chosen 45 samples of peanut and 45 samples of soybean and examined fungus. 

Journal of Food and Nutrition Sciences - Vol.4, No.3+4, December, Year 2008
Author: Dang Bich Thuy, Pham Ngoc Khai
Summary:
The study was implemented in 3 communes of Kien Xuong district, Thai Binh province. Sampling was  randomly  selected by cluters of households to direct interview 610 heads of households, chosen 45 samples of peanut and 45 samples of soybean and examined fungus. The results showed that the rate of hygienic prevented  foods  was very low  as peanut (35.6%) and  soybean (48.9%). The  rate of food contaminated to fungus was higher in group food prevention with significant difference.
Tình hình nhiễm nấm mốc trong lạc, đỗ tương và kiến thức, thực hành về phòng chống nhiễm nấm trong thực phẩm của người dân ở một số xã huyện Kiến Xương, Thái Bình

Nghiên cứu được thực hiện tại 3 xã của huyện Kiến Xương, Thái Bình. Tiến hành chọn ngẫu nhiên một số gia đình trong các cụm dân cư để phỏng vấn trực tiếp 610 chủ hộ gia đình, lấy mẫu thực phẩm ngẫu nhiên (lấy 45 mẫu lạc và 45 mẫu đậu tương) xét nghiệm nấm mốc.

Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm - Tập 4, Số 3+4, Tháng 12, Năm 2008

Tác giả: Đặng Bích Thủy, Phạm Ngọc Khái
Tóm tắt:
Nghiên cứu được thực hiện tại 3 xã của huyện Kiến Xương, Thái Bình. Tiến hành chọn ngẫu nhiên một số gia đình trong các cụm dân cư để phỏng vấn trực tiếp 610 chủ hộ gia đình, lấy mẫu thực phẩm ngẫu nhiên (lấy 45 mẫu lạc và 45 mẫu đậu tương) xét nghiệm nấm mốc, kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ mẫu thực phẩm được bảo quản đúng kỹ thuật tại hộ gia đình tương đối thấp (lạc 35,6%, đỗ tương là 48,9%). Tỷ lệ nhiễm nấm mốc ở nhóm bảo quản không đúng cao hơn so với nhóm bảo quản đúng với p<00,5). Kết quả xét nghiệm có 13,3% mẫu lạc và có 24,4% mẫu đỗ tương có nhiễm nấm mốc. Tỷ lệ hiểu biết đúng về cách xử trí khi thực phấm bị nấm mốc chiếm tỷ lệ rất thấp (13,8%). Hiểu biết của người dân về nhiễm nấm mốc và biện pháp phòng chống nhiễm nấm mốc và biện pháp phòng chống nhiễm nấm mốc ở thực phẩm còn hạn chể và có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi.