Bổ sung đa vi chất vào gạo là biện pháp hữu hiệu để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng. Để đánh giá tính khả thi của loại gạo này, nghiên cứu tiến hành đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng tới việc chấp nhận gạo bổ sung đa vi chất. Đối tượng điều tra là phụ nữ tuổi sinh đẻ và nhà xay xát tại hai xã của tỉnh Bắc Giang.
Hiện nay, tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em, nhất là ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn là một vấn đề y tế cần được quan tâm. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá xu hướng thay đổi giá trị trung bình Z-score của các chỉ số nhân trắc trong các điều tra tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em tại Việt Nam từ năm 2003 – 2011.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu dọc tiến cứu nhằm xác định các đặc điểm về dịch tễ, tiền căn sản khoa, chỉ số đường huyết được chẩn đoán bằng nghiệm pháp dung nạp glucose và tình trạng dinh dưỡng trước mang thai của 170 thai phụ khám và điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Từ Dũ TPHCM năm 2019.
Các mốc chính về hoạt động, chiến lược phòng chống thiếu vitamin A, thiếu máu dinh dưỡng ở Việt Nam; khuynh hướng thay đổi về tỷ lệ thiếu 2 vi chất dinh dưỡng trên cộng đồng; một số nghiên cứu ở Việt Nam về hiệu quả của can thiệp vi chất dinh dưỡng.
Nghiên cứu bệnh chứng (case-control) trên 481 trẻ thấp còi và 450 trẻ không thấp còi theo phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn được tiến hành tại 3 tỉnh Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ trẻ bị tiêu chảy ở nhóm thấp còi là 15,6% và ở nhóm không thấp còi là 11%.
Nghiên cứu tiến hành trên 1066 sĩ quan thuộc bộ tư lệnh biên phòng tại Hà Nội, trong đó có 82,65% nam và 17,35% nữ. Các đối tượng được lựa chọn ngẫu nhiên từ những người có độ tuổi từ 30 đến 59, nhóm có độ tuổi 40-49 nhiều nhất, chiếm 52,82%; với mục tiêu: “Đánh giá thực trạng thừa cân béo phì, rối loạn lipid máu của Sĩ quan thuộc bộ Tư lệnh bộ đội Biên phòng tại Hà Nội”.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 200 bệnh nhân nhập viện trong vòng 24h đã được chẩn đoán ung thư tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ nhằm bước đầu đánh giá tình trạng dinh dưỡng những bệnh nhân này. Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân được đánh giá bằng các phương pháp nhân trắc học BMI, bằng các thông số sinh hóa (albumin, protein,...
91 mẫu sữa mẹ từ 91 bà mẹ nuôi con bú trong thời gian từ 29 đến 120 ngày đã được thu thập tại nội thành Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các mẫu sữa được phân tích 60 thành phần dinh dưỡng, trong đó có 10 thành phần muối khoáng. Kết quả cho thấy, có sự dao động rất lớn giữa các cá thể và nồng độ của 10 thành phần khoáng chất này.
Mục tiêu: Đánh giá mức độ suy dinh dưỡng của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) nhập bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang. Kết quả: Có 127 bệnh nhân với đa số là nam (86,61%) và tuổi trung bình là 63,03 ± 8,86. Đa số là COPD độ III với 42,52% và độ IV với 29,13%.
Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào cuối năm 2005 nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng trên học sinh 11-14 tuổi tại Bình Lục, Hà Nam. Cân nặng, chiều cao của 2671 học sinh (nam/ nữ = 50,6%/ 49,4%) được thu thập và so sánh với học sinh cùng tuổi, giới của Việt Nam tại 2 thời kỳ: trước 1975 và 1981-1985.
Từ khi bắt đầu có sự quan tâm từ thập niên 1970, suy dinh dưỡng (SDD) bệnh viện dần dần được làm sáng tỏ về mặt cơ chế, tần suất, nguyên nhân, tiêu chuẩn, công cụ chẩn đoán và điều trị qua rất nhiều y văn liên quan. SDD bệnh viện chiếm một tỉ lệ không nhỏ ở bệnh nhân nằm viện trên thế giới cả ở nước đã và đang phát triển.
Mục tiêu: Nhằm đánh giá giá hiệu quả cải thiện tình trạng thừa cân-béo phì và tăng lipid máu bằng bổ sung chất xơ polydextrose. Cách tiến hành: Thử nghiệm can thiệp cộng đồng ngẫu nhiên có đối chứng trên 108 sĩ quan, một nhóm sử dụng 20g sản phẩm Vitan1 (chứa 20g polydextrose)/ngày còn nhóm chứng được dùng 2 viên giả dược.
Nghiên cứu này nhằm cung cấp số liệu ban đầu về hàm lượng 15 chất PAHs trong 15 món ăn thông dụng chế biến sẵn từ thịt tại Hà Nội. Tổng số 120 mẫu phân tích được thu thập tại 8 quận nội thành Hà Nội. Sử dụng kỹ thuật HPLC với detector huỳnh quang và PDA, chế độ chạy gradient đã được thẩm định để xác định các PAHs.
Một phương pháp với độ chọn lọc cao và độ nhạy cao đã được phát triển để xác định hàm lượng Chloropropanols bao gồm 1,3-Dichloropropan-2-ol (1,3-DCP) và 3-Chloropropan-1,2-diol (3-MCPD) trong nước tương và tương đặc. Mẫu được đồng nhất và trộn với dung dịch natri clorua bão hòa sau đó cho hấp thụ lên cột kielselgurh.
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2011, trên 810 bà mẹ và trẻ em từ 0-36 tháng tuổi tại 3 xã phường thuộc 3 huyện thị đồng bằng ven biển tỉnh Khánh Hòa nhằm mô tả tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) của trẻ và một số chỉ số chính về thực hành dinh dưỡng của bà mẹ.
Nghiên cứu được triển khai trong năm 2007 nhằm đánh giá hiệu quả của viên sắt py-rophosphate (SaFe) có chứa đường Difructose Anhydrate III (DFA III) với cải thiện thiếu máu thiếu sắt (TMTS).
Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả, sử dụng phương pháp định tính kết hợp với định lượng, tiến hành tại xã Yên Sở-tỉnh Hà Tây từ tháng 5/2006 đến 5/2007.
Nghiên cứu can thiệp tự đối chứng nhằm đánh giá khả năng kiểm soát tăng đường huyết sau ăn của sản phẩm VOSCAP chiết tách từ lá vối, lá ổi, lá sen đã được tiến hành trên 40 bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Hà Nội. Tiến hành trong 2 ngày khác nhau: Ngày thứ nhất đối tượng chỉ uống 50 ml nước trắng và ăn một bữa ăn với tổng lượng 250 Kcal, ngày...
Hiệu quả sử dụng sữa EnPlus được đánh giá trên 151 đối tượng 40-79 tuổi bị thiếu năng lượng trường diễn (CED, BMI<18.5), 40-79 tuổi. Đối tượng được uống khẩu phần bổ sung 2 cốc EnPlus/ngày, 7 ngày/tuần x 12 tuần. Các chỉ số BMI, tỷ lệ mỡ cơ thể; nồng độ Hb, retinol, kẽm huyết thanh được đánh giá khi bắt đầu và khi kết thúc can thiệp.