Những đường biên mới của dinh dưỡng học
Dinh
dưỡng học đã hình thành như một ngành khoa học độc lập từ giữa thế kỷ
XIX và trong thế kỷ XX đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà
khoa học gọi thế kỷ XX là thế kỷ “lớn” của dinh dưỡng học. Có thể nhìn
thấy các giai đoạn nhảy vọt lớn sau:
Vào
những thập niên đầu thế kỷ XX các phát hiện liên tiếp và có hệ thống về
các vitamin và nhiều...
Tóm tắt tiếng Việt: Dinh
dưỡng học đã hình thành như một ngành khoa học độc lập từ giữa thế kỷ
XIX và trong thế kỷ XX đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà
khoa học gọi thế kỷ XX là thế kỷ “lớn” của dinh dưỡng học. Có thể nhìn
thấy các giai đoạn nhảy vọt lớn sau:
Vào
những thập niên đầu thế kỷ XX các phát hiện liên tiếp và có hệ thống về
các vitamin và nhiều yếu tố dinh dưỡng thiết yếu khác đã làm cơ sở khoa
học cho việc thanh toán nhiều bệnh do thiếu dinh dưỡng. Đáng kể nhất là
sự phát hiện vai trò của vitamin A – nguyên nhân của bệnh khô mắt gây
mù lòa vĩnh viễn ở trẻ em, vitamin B1 – nguyên nhân của bệnh tê phù,
vitamin C và hàng loạt các vitamin khác. Có thể nói cho đến giữa thế kỷ
XX, danh mục các vitamin cần thiết cho cơ thể đã được phát hiện đầy đủ.
Cuộc
chiến tranh thế giới II kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát
triển nhiều ngành khoa học trong đó có dinh dưỡng học. Các nghiên cứu cơ
bản tập trung vào sự hiểu biết vai trò các axit amin, các axit béo cần
thiết và giá trị sinh học của chúng. Bên cạnh đó các nghiên cứu ứng dụng
cũng được quan tâm.
Vào
các thập kỷ 60,70 các nghiên cứu dịch tễ học ở Châu Á, châu Phi cho
thấy nhiều bệnh do thiếu các chất dinh dưỡng đã biết từ lâu vẫn còn lưu
hành rộng rãi ở nhiều nước phát triển và đòi hỏi các chương trình hành
động
English summary: Dinh
dưỡng học đã hình thành như một ngành khoa học độc lập từ giữa thế kỷ
XIX và trong thế kỷ XX đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà
khoa học gọi thế kỷ XX là thế kỷ “lớn” của dinh dưỡng học. Có thể nhìn
thấy các giai đoạn nhảy vọt lớn sau:
Vào
những thập niên đầu thế kỷ XX các phát hiện liên tiếp và có hệ thống về
các vitamin và nhiều yếu tố dinh dưỡng thiết yếu khác đã làm cơ sở khoa
học cho việc thanh toán nhiều bệnh do thiếu dinh dưỡng. Đáng kể nhất là
sự phát hiện vai trò của vitamin A – nguyên nhân của bệnh khô mắt gây
mù lòa vĩnh viễn ở trẻ em, vitamin B1 – nguyên nhân của bệnh tê phù,
vitamin C và hàng loạt các vitamin khác. Có thể nói cho đến giữa thế kỷ
XX, danh mục các vitamin cần thiết cho cơ thể đã được phát hiện đầy đủ.
Cuộc
chiến tranh thế giới II kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát
triển nhiều ngành khoa học trong đó có dinh dưỡng học. Các nghiên cứu cơ
bản tập trung vào sự hiểu biết vai trò các axit amin, các axit béo cần
thiết và giá trị sinh học của chúng. Bên cạnh đó các nghiên cứu ứng dụng
cũng được quan tâm.
Vào
các thập kỷ 60,70 các nghiên cứu dịch tễ học ở châu Á, châu Phi cho
thấy nhiều bệnh do thiếu các chất dinh dưỡng đã biết từ lâu vẫn còn lưu
hành rộng rãi ở nhiều nước phát triển và đòi hỏi các chương trình hành
động.
English summary: Dinh
dưỡng học đã hình thành như một ngành khoa học độc lập từ giữa thế kỷ
XIX và trong thế kỷ XX đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà
khoa học gọi thế kỷ XX là thế kỷ “lớn” của dinh dưỡng học. Có thể nhìn
thấy các giai đoạn nhảy vọt lớn sau:
Vào
những thập niên đầu thế kỷ XX các phát hiện liên tiếp và có hệ thống về
các vitamin và nhiều yếu tố dinh dưỡng thiết yếu khác đã làm cơ sở khoa
học cho việc thanh toán nhiều bệnh do thiếu dinh dưỡng. Đáng kể nhất là
sự phát hiện vai trò của vitamin A – nguyên nhân của bệnh khô mắt gây
mù lòa vĩnh viễn ở trẻ em, vitamin B1 – nguyên nhân của bệnh tê phù,
vitamin C và hàng loạt các vitamin khác. Có thể nói cho đến giữa thế kỷ
XX, danh mục các vitamin cần thiết cho cơ thể đã được phát hiện đầy đủ.
Cuộc
chiến tranh thế giới II kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát
triển nhiều ngành khoa học trong đó có dinh dưỡng học. Các nghiên cứu cơ
bản tập trung vào sự hiểu biết vai trò các axit amin, các axit béo cần
thiết và giá trị sinh học của chúng. Bên cạnh đó các nghiên cứu ứng dụng
cũng được quan tâm.
Vào
các thập kỷ 60,70 các nghiên cứu dịch tễ học ở châu Á, châu Phi cho
thấy nhiều bệnh do thiếu các chất dinh dưỡng đã biết từ lâu vẫn còn lưu
hành rộng rãi ở nhiều nước phát triển và đòi hỏi các chương trình hành
động.