CỔNG THÔNG TIN DINH DƯỠNG QUỐC GIA

VIETNAM NUTRITIONAL PORTAL

Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của người lao động tại công ty than Quảng Ninh năm 2021
5 lượt xem
chia sẻ
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của người lao động tại công ty than Quảng Ninh.   Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 400 nam công nhân mỏ từ 20-49 tuổi tại công ty Than Quảng Ninh năm 2021. Điều tra khẩu phần bằng phương pháp hỏi ghi 24 giờ kết hợp cân đong. Tình trạng dinh dưỡng được phân loại theo chỉ số...
Tóm tắt tiếng Việt: Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của người lao động tại công ty than Quảng Ninh. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 400 nam công nhân mỏ từ 20-49 tuổi tại công ty Than Quảng Ninh năm 2021. Điều tra khẩu phần bằng phương pháp hỏi ghi 24 giờ kết hợp cân đong. Tình trạng dinh dưỡng được phân loại theo chỉ số khối cơ thể (BMI), đánh giá khẩu phần theo Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam năm 2016. Kết quả: Công nhân mỏ công ty Than Quảng Ninh có 15,5 % thừa cân (25£BMI<29 kg/m2), 0,5% béo phì (³30 kg/m2), 2% thiếu năng lượng trường diễn (BMI<18,5 kg/m2). Giá trị trung vị của khẩu phần mỗi ngày gồm 2768,4 Kcal năng lượng, 105,1 g protein, 67,3 g lipid, và 437,8 g glucid. Nhóm công nhân sửa chữa, vận hành cơ điện có tỉ lệ thừa cân, béo phì và  thiếu năng lượng trường diễn cao hơn ở công nhân khai thác, vận chuyển than (p<0,05). Kết luận: Thừa cân là vấn đề dinh dưỡng chủ yếu của người lao động tại Công ty Than Quảng Ninh. Khẩu phần của công nhân cân đối, có mức năng lượng và hàm lượng các chất sinh năng lượng đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị. Có mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với vị trí việc làm của người lao động. Tài liệu tham khảo 1. ILO News. Poor workplace nutrition hits workers’ health and productivity. ILO report, GENEVA, 2005. 2. Vũ Văn Quyết, Phạm Duy Quang, Nguyễn Thuỳ Linh. Tình trạng thiếu vi chất của nữ công nhân từ 15-35 tuổi tại một công ty tại Miền Bắc Việt Nam năm 2020. Tạp chí Nghiên cứu Y học. 2021;146(10):29-36. 3. Nguyễn Thị Lan Hương, Đỗ Thị Phương Hà, Lê Bạch Mai. Thực trạng bữa ăn ca công nhân dệt may một số điểm miền Bắc. Tạp chí Y học Việt Nam, 2021;498(1):86-90 4. WHO Physical status: the use and interpretation of anthropometry. WHO, , accessed: 05/08/202. 5. Viện Dinh Dưỡng (2016). Nhu cầu Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam. Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội, 32-84. 6. Mazheva. Characteristics of the diet and nutritional status of workers at various industrial enterprises of the Sverdlovsk Region. Vopr Pitan. 2018;87(1):72-78. 7. Phạm Ngọc Khái, Lê Văn Nghị, Đặng Bích Thủy. Nhận xét về một số chỉ số nhân trắc dinh dưỡng, thể lực của người lao động làng nghề tại 3 tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm. 2010;1:41-46. 8. Lê Thị Xuân Quỳnh. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và một số yếu tố liên quan ở công nhân công ty cổ phần thủy đặc sản huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018.
English summary: Aims: To assess nutritional status and related factors to nutritional status of mine workers. Methods: The cross-sectional study conducted on 400 male workers aged 20-49 years at the Quang Ninh Coal Company in 2021. Nutritional status was classifed according to body mass index (BMI). Daily nutrition intake of mine workers was identified using 24-hour dietary recall and food-measuring method and was compared with the 2016 Recommended Dietary Allowance for Vietnamese people. Results: The rates of overweight (25£BMI<29.9 kg/m2), obesity (BMI³30 kg/m2) and chronic energy deficiency (BMI<18,5 kg/m2) in the workers was 15.5, 0.5, and 2%, respectively. Their median daily intake had 2768.4 Kcal. 105.1g protein, 67.3g lipid and 437.8g glucid. The rates of overweight, obesity and chronic energy deficiency was significantly higher in the repairing and operating electromechanical machines workers as conpaired to the mining and transportating workers (p < 0.05). Conclusion: Overweight status was dominant in the workers at the Coal Quang Ninh Company. The workers had the dietary intake balance, energy intake  and the amount of energy producing substances to meet the recommended dietary allowance. There was an association between nutritional status and job position of the workers. References 1. ILO News. Poor workplace nutrition hits workers’ health and productivity. ILO report, GENEVA, 2005. 2. Vũ Văn Quyết, Phạm Duy Quang, Nguyễn Thuỳ Linh. Tình trạng thiếu vi chất của nữ công nhân từ 15-35 tuổi tại một công ty tại Miền Bắc Việt Nam năm 2020. Tạp chí Nghiên cứu Y học. 2021;146(10):29-36. 3. Nguyễn Thị Lan Hương, Đỗ Thị Phương Hà, Lê Bạch Mai. Thực trạng bữa ăn ca công nhân dệt may một số điểm miền Bắc. Tạp chí Y học Việt Nam, 2021;498(1):86-90 4. WHO Physical status: the use and interpretation of anthropometry. WHO, accessed: 05/08/202. 5. Viện Dinh Dưỡng (2016). Nhu cầu Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam. Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội, 32-84. 6. Mazheva. Characteristics of the diet and nutritional status of workers at various industrial enterprises of the Sverdlovsk Region. Vopr Pitan. 2018;87(1):72-78. 7. Phạm Ngọc Khái, Lê Văn Nghị, Đặng Bích Thủy. Nhận xét về một số chỉ số nhân trắc dinh dưỡng, thể lực của người lao động làng nghề tại 3 tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm. 2010;1:41-46. 8. Lê Thị Xuân Quỳnh. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và một số yếu tố liên quan ở công nhân công ty cổ phần thủy đặc sản huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018.
English summary: Aims: To assess nutritional status and related factors to nutritional status of mine workers. Methods: The cross-sectional study conducted on 400 male workers aged 20-49 years at the Quang Ninh Coal Company in 2021. Nutritional status was classifed according to body mass index (BMI). Daily nutrition intake of mine workers was identified using 24-hour dietary recall and food-measuring method and was compared with the 2016 Recommended Dietary Allowance for Vietnamese people. Results: The rates of overweight (25£BMI<29.9 kg/m2), obesity (BMI³30 kg/m2) and chronic energy deficiency (BMI<18,5 kg/m2) in the workers was 15.5, 0.5, and 2%, respectively. Their median daily intake had 2768.4 Kcal. 105.1g protein, 67.3g lipid and 437.8g glucid. The rates of overweight, obesity and chronic energy deficiency was significantly higher in the repairing and operating electromechanical machines workers as conpaired to the mining and transportating workers (p < 0.05). Conclusion: Overweight status was dominant in the workers at the Coal Quang Ninh Company. The workers had the dietary intake balance, energy intake  and the amount of energy producing substances to meet the recommended dietary allowance. There was an association between nutritional status and job position of the workers. References 1. ILO News. Poor workplace nutrition hits workers’ health and productivity. ILO report, GENEVA, 2005. 2. Vũ Văn Quyết, Phạm Duy Quang, Nguyễn Thuỳ Linh. Tình trạng thiếu vi chất của nữ công nhân từ 15-35 tuổi tại một công ty tại Miền Bắc Việt Nam năm 2020. Tạp chí Nghiên cứu Y học. 2021;146(10):29-36. 3. Nguyễn Thị Lan Hương, Đỗ Thị Phương Hà, Lê Bạch Mai. Thực trạng bữa ăn ca công nhân dệt may một số điểm miền Bắc. Tạp chí Y học Việt Nam, 2021;498(1):86-90 4. WHO Physical status: the use and interpretation of anthropometry. WHO, accessed: 05/08/202. 5. Viện Dinh Dưỡng (2016). Nhu cầu Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam. Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội, 32-84. 6. Mazheva. Characteristics of the diet and nutritional status of workers at various industrial enterprises of the Sverdlovsk Region. Vopr Pitan. 2018;87(1):72-78. 7. Phạm Ngọc Khái, Lê Văn Nghị, Đặng Bích Thủy. Nhận xét về một số chỉ số nhân trắc dinh dưỡng, thể lực của người lao động làng nghề tại 3 tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm. 2010;1:41-46. 8. Lê Thị Xuân Quỳnh. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và một số yếu tố liên quan ở công nhân công ty cổ phần thủy đặc sản huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018.